Tên khoa học: Xanthomonas oryzae
Phân bố và tác hại:
Xuất hiện ở Nhật Bản, Trung Quốc, Ấn độ, Thái Lan, Việt Nam.
Mức độ hại tuỳ thuộc vào giống. Hại từ lúc đẻ nhánh đến chín. Nặng nhất ở giai đoạn đẻ nhánh.
Hại ở trên lá đòng làm lá sớm tàn, nhanh chóng bị chết khô, ảnh hưởng quang hợp, tích luỹ chất khô => năng suất giảm.
> Triệu chứng:</b>
Hại từ giai đoạn mạ đến chín, biểu hiện rõ nhất từ giai đoạn đẻ -> trổ -> chín sữa.
Ở trên mạ hại ở mép lá, mút lá với những vệt dài ngắn khác nhau, đầu tiên có màu xanh vàng -> nâu vàng (bạc) làm cho lá bị khô.
Ở trên lá hại từ mép lá lan dần vào trong phiến lá hoặc lan thẳng xuống gân chính của lá. Có một số trường hợp ở ngay giữa phiến lá sau đó lan theo hình gợn sóng. Mô bệnh xanh tái, vàng lục -> nâu bạc, khi lá khô có màu xám.
Ranh giới giữa mô bệnh và khoẻ rất rõ có giới hạn theo hình gợn sóng; đôi khi có màu vàng hoặc đường viền màu nâu sẩm, đường viền bị đứt quảng. Trong điều kiện T0, H% cao, trên vết bệnh xuất hiện những giọt dịch nhờn tròn, keo đặc, có màu vàng lục ( đặc trưng bệnh vi khuẩn ), khi nó rắn cứng lại có màu nâu.
Quy luật biến động:
Vi khuẩn phát sinh phát triển mạnh trong muà mưa, phụ thuộc vào chế độ phân bón; miền Bắc phát triển trong tất cả các vụ, miền Nam phát triển trong mùa mưa.
Nhiệt độ thích hợp: 26 – 300C ẩm độ cao, mưa gió mạnh gây hại nặng ở giai đoạn làm đòng trở đi.
Sự nhiễm bệnh phụ thuộc vào giai đoạn sinh trưởng của cây lúa, biện pháp canh tác, bón phân.
Biện pháp phòng trị:
- Bón vôi giảm bớt nguồn bệnh trong đất.
- Sử dụng giống kháng bệnh.
- Trước khi trồng xử lý hạt bằng chất kháng sinh (Strepomycin, Falizan 0,3%).
Khi làm mạ chọn chân mạ cao, không bị ngập úng, bón phân cân đối. Điều chỉnh nước thích hợp, để nước cạn 5 – 10 cm, ngưng bón N khi bệnh mới xuất hiện.
Phân bố và tác hại:
Xuất hiện ở Nhật Bản, Trung Quốc, Ấn độ, Thái Lan, Việt Nam.
Mức độ hại tuỳ thuộc vào giống. Hại từ lúc đẻ nhánh đến chín. Nặng nhất ở giai đoạn đẻ nhánh.
Hại ở trên lá đòng làm lá sớm tàn, nhanh chóng bị chết khô, ảnh hưởng quang hợp, tích luỹ chất khô => năng suất giảm.
> Triệu chứng:</b>
Hại từ giai đoạn mạ đến chín, biểu hiện rõ nhất từ giai đoạn đẻ -> trổ -> chín sữa.
Ở trên mạ hại ở mép lá, mút lá với những vệt dài ngắn khác nhau, đầu tiên có màu xanh vàng -> nâu vàng (bạc) làm cho lá bị khô.
Ở trên lá hại từ mép lá lan dần vào trong phiến lá hoặc lan thẳng xuống gân chính của lá. Có một số trường hợp ở ngay giữa phiến lá sau đó lan theo hình gợn sóng. Mô bệnh xanh tái, vàng lục -> nâu bạc, khi lá khô có màu xám.
Ranh giới giữa mô bệnh và khoẻ rất rõ có giới hạn theo hình gợn sóng; đôi khi có màu vàng hoặc đường viền màu nâu sẩm, đường viền bị đứt quảng. Trong điều kiện T0, H% cao, trên vết bệnh xuất hiện những giọt dịch nhờn tròn, keo đặc, có màu vàng lục ( đặc trưng bệnh vi khuẩn ), khi nó rắn cứng lại có màu nâu.
Quy luật biến động:
Vi khuẩn phát sinh phát triển mạnh trong muà mưa, phụ thuộc vào chế độ phân bón; miền Bắc phát triển trong tất cả các vụ, miền Nam phát triển trong mùa mưa.
Nhiệt độ thích hợp: 26 – 300C ẩm độ cao, mưa gió mạnh gây hại nặng ở giai đoạn làm đòng trở đi.
Sự nhiễm bệnh phụ thuộc vào giai đoạn sinh trưởng của cây lúa, biện pháp canh tác, bón phân.
Biện pháp phòng trị:
- Bón vôi giảm bớt nguồn bệnh trong đất.
- Sử dụng giống kháng bệnh.
- Trước khi trồng xử lý hạt bằng chất kháng sinh (Strepomycin, Falizan 0,3%).
Khi làm mạ chọn chân mạ cao, không bị ngập úng, bón phân cân đối. Điều chỉnh nước thích hợp, để nước cạn 5 – 10 cm, ngưng bón N khi bệnh mới xuất hiện.
Last edited: