tên đẹp nhưng cây ko đẹp lắm. còn công năng thì nên hỏi các thầy thuốc chức e có bit đâu. E chỉ nhớ mang máng câu cổ xưa thôi
"Độc cước nhất chi hoa
Độc xà bất tiến gia".
còn theo tài liệu nước ngoài thì khá nhiều công dụng nhưng chủ yếu là ngăn cản sự pt của tế bào u ác tính (thế nên 2010 mới rộ lên là thần dược chựa ung thư) giải độc gan (tuy nhiên đây là cây có độc nếu sử dụng uống quá liều hoặc chưa qua sơ chế).
Có riêng 1 trang wwww.Paris polyphylla nói về công dụng và thị trường của cây này, Riêng tôi chỉ thấy TQ thu mua với giá trị cao từ năm 2002 đến nay nên đã trồng để bảo tồn thôi. còn giá hiện tại TQ mua tại Lào Cai là 400k/ kg tươi. 12k/ củ mầm.
Tại VN công dụng rõ nhất trong bài thuốc của lương y Phan lê Ngưu (Huế) được đăng trêng trang
http://www.khoahocphothong.com.vn/news/detail/9740/cay-trong-lau-(huou-tuc-nhieu-la).html.
Trong các thuốc đông y, có vị Trọng lâu (Chonglou), có khi phiên âm là Trọng lu. Nó còn có tên Thất diệp nhất chi hoa (cây 7 lá 1 hoa), Tứ diệp nhất chi hoa… tùy theo số lá mọc vòng quanh mắt. Người Hoa còn gọi là Hươu túc đa diệp (Chân hươu nhiều lá), tên khoa học là Paris polyphylla Smith. subsp. yunnamensis (Franch.) Hand-Mazz.
Vị Trọng lâu dùng trong đông y là căn hành (rễ ngầm) của các cây Paris polyphylla Smith, subsp. yunnamensis (Franch.) Hand-Mazz, hoặc cây Paris polyphylla Smith subsp. chinensis (Franch.) Hand., mọc hoang dưới tán rừng, dọc khe suối tại các cao nguyên. Paris polyphylla subsp. yunnamensis, Paris polyphylla Smith subsp. polyphylla ở Kontum; Paris delavayi Franch. ở Sapa, rừng Cúc Phương; Paris polyphylla Smith subsp. fargesii (Fr.) Hara. có ở Sapa.
Theo đông y, Trọng lâu có vị đắng, tính hàn (cũng có tài liệu nói vị ngọt hơi cay, tính bình), tác dụng thanh nhiệt, giảm sốt, giải độc, trừ ho, kháng viêm, giảm đau và chống kinh giật. Được dùng để trị sưng phù, nhọt độc, viêm nhiễm, rắn cắn, thương tích té ngã, làm kinh. Liều lượng và cách dùng: 3 - 9 g rễ khô xắt mỏng, sắc uống. Dùng ngoài, giã đắp với lượng vừa đủ. Khi ở trong rừng bị rắn độc cắn: dùng củ Chân hươu tươi nhai nuốt nước, bã đắp lên vết cắn.
Một số bài thuốc (theo sách “Cây thuốc phòng trị ung thư” - Phan Lê, Lê Quý Ngưu…):
Trị ung thư gan nguyên phát: Trọng lâu 15 g, Bán chi liên (Scutellaria barbata) 15 g, Sơn từ cô (Iphigenia indica) 15 g, Nga truật (Curcuma zedoaria) 10 g, Ngô công (con Rít - Scolopendra subspinipes mutilans) 2 con, Điền thất (Polygonum cuspidatum) 12 g. Dược liệu khô tán bột, mỗi lần uống 3 g, ngày 2 - 3 lần.
Trị ung thư phổi: Trọng lâu 60 g, Tử thảo căn (rễ cây Arnebia euchroma) 60 g, Tiền hồ (Peucedanum praeruptorum) 30 g, Ngưu hoàng (Bostaurus domesticus) 10 g. Ba vị đầu nấu thành cao, sấy khô, tán bột rồi trộn với bột Ngưu hoàng. Mỗi lần uống 1,5 g, ngày 3 lần.
Trị ung thư họng hầu: Trọng lâu 25 g, Kiều mạch (Fagopyrum esculentum) 25 g, Lổ bình tàu (Bán biên liên - Lobelia chinensis) 25 g, Long quỳ (Thù lù trần - Solanum nigrum) 40 g. Sắc uống ngày 1 thang.
Trị ung thư cổ tử cung: Trọng lâu (Thất diệp nhất chi hoa) 20 g, Bạch mao đằng căn (rễ dây Tồn - Solanum lyratum) 30 g, Bạch đinh hương hoa căn (rễ cây Bông phấn - Mirabilis jalapa) 20 g, Tam lăng (Sparganium stoloniferum) 20 g, Nga truật (Curcuma zedoaria) 20 g, Hoàng cầm (Scutellaria baicalensis) 15 g, Hoàng bá (Phellodendron amurense)10 g vỏ. Sắc uống ngày 1 thang.