Đây là 1 trong những tài liệu chăn nuôi Lươn của TQ . Nếu có gì chưa chuẩn hoặc thiếu sót mong các Bạn góp thêm ý kiến cho hoàn thiện , phù hợp với điều kiện thực tế trong nước heng .
Kỹ thuật nuôi Lươn không dơ bẩn ( không bùn )
Thịt lươn là ngon, bổ dưỡng , và cả giá trị chữa bệnh của nó , trong các loài nuôi trồng thủy sản đã phát triển , Lươn đặc biệt được quan tâm cao đến giá cả . Hiện các kỹ thuật canh tác không dơ bẩn được mô tả dưới đây :
Thứ nhất, xây dựng môi trường chăn nuôi Lươn
1/ Hồ Xi măng nuôi Lươn : phương pháp canh tác không dơ bẩn ( không bùn ) này nên được trồng đậu phộng nước hoặc lục bình nước , giúp điều chỉnh nhiệt độ nước trong mùa nóng và tạo môi trường thân thiện tương thích với tự nhiên cho lươn , có thể được lây lan toàn bộ hồ , chỉ để lại một vài điểm nhỏ thả thức ăn cho Lươn . Với canh tác không dơ bẩn mực nước được duy trì ở mức 30 cm đến 40 cm là thích hợp , mô hình trang trại này có những lợi thế hiệu quả cho việc khử trùng nước
2 / Ruộng đất canh tác thả lồng lưới , các góc lồng cố định , trồng đậu phộng hoặc lục bình, kích thước lồng 2 m x 3m là thích hợp , đáy lưới cách mặt đất ruộng 20 – 25cm , mực nước ruộng từ 60 – 70cm . Không nên trồng trong lồng các loại cây có rễ cứng khác lớp biểu bì của Lươn dễ bị bầm tím khi di chuyển .
Tất cả mổi khu vực văn hóa mô hình trên không nên quá lớn dễ dẫn đến quá trình sinh trưởng không đồng đều , sự khác biệt kích thước lươn khi tăng trọng quá lớn sẽ không thuận lợi ( hiện tượng Lươn lớn ăn thịt lươn bé ).
Thứ hai , việc lựa chọn giống
Màu vàng đốm và màu đen nên được lựa chọn đây là những loài lươn lớn và có thể bố trí mật độ dày đặc , 2 chủng loài lươn này phát triển nhanh nhất , trong khi loại đen xám hoặc màu xanh tăng trưởng rất chậm , và những con giống loài này thường có xu hướng tương đối bạo lực .
Khi chọn giống, chú ý không nên chọn Lươn bị thương tích , bị chích điện , Lươn câu , hoặc đặt thuốc cá , và nên chọn con giống lành mạnh , sức sống mạnh mẽ , nhẹ nhàng chạm vào thân dễ vuột đến đuôi của nó . Lựa chọn nên được phân loại theo kích cở con giống phù hợp , bởi vì lươn với hiện tượng là loài ăn thịt kể cả đồng loại , đặc biệt là trong tình trạng thiếu thực phẩm rất dễ bị .
Ba , nhiệt độ nước , giá trị pH tác động trên con lươn
Lươn nhạy cảm với thay đổi nhiệt độ nước, nhiệt độ tăng trưởng từ 15 ℃ ~ 30 ℃ , 25 - 28 ℃ khi các hoạt động của sự tăng trưởng gia tăng chúng sử dụng thức ăn nhanh mạnh ,. do đó cần chú ý đến sự tương quan giữa nhiệt độ nước và khẩu phần thức ăn cho lươn . Khi nhiệt độ nước dưới 15 ℃ lươn sẽ không ăn và đi vào ngủ đông .
Giá trị pH cũng được tính đến . Trong quá trình cho ăn , nếu không đủ oxy hoặc ức chế quá trình oxy hóa , thức ăn thừa , chất hữu cơ, sự tích tụ dần dần của phân , phân hủy là không đủ , nó sẽ tích lũy hữu cơ làm giảm PH , ảnh hưởng đến sự tăng trưởng của lươn , vì vậy quá trình nuôi nên chú ý cho ăn thức ăn tươi , nước sạch , luôn luôn chú ý đến việc thay nước thường xuyên và xác định độ pH , lươn thường thích hợp cho sinh sống trong các vùng nước của một ( giá trị pH trung tính hoặc hơi chua giữa 6.5 - 7.2 ) . Thay đổi nước nên chú ý đến thời tiết và nhiệt độ nước , mỗi lần thay đổi chỉ từ 3 - 5 cm là thích hợp, nên từ từ rút nước cũ và sau đó từ từ xả vào nước ngọt vào . Tỷ lệ theo mùa cũng nên làm như theo cách tương tự . Nếu thay đổi nước quá nhanh , dễ dẫn đến chênh lệch nhiệt độ lớn , do đó dễ dẫn đến cái lạnh cho lươn .
Thứ tư, quản lý hồ nuôi
1/ Hồ nuôi : trước khi thả Lươn giống thời gian khử trùng nên được làm trước 10 ngày , cũng không nên quá muộn vì chất thải trong nước hồ lại sớm dễ dàng để vi khuẩn tái sinh sản. Mực nước trong hồ khi khử trùng 5 - 6 cm chiều cao , với 90 – 120g / m 2 vôi khử trùng . Một ngày sau khi khử trùng khuấy động nước hồ thêm một lần nữa , để nó hoàn toàn vai trò khử trùng của nó , sau khoảng thời gian khử trùng 2 ngày thoát nước cũ và đưa nước mới vào ,.
2/ Sau giai đoạn khử trùng và trước khi thả Lươn vào hồ để xác định xem còn dư lượng hóa chất khử trùng hoặc còn chất ô nhiễm hay không ( đối với hồ xây mới ) , chỉ nên thả 1 – 3 con lươn giống vào hồ , nếu như Lươn hoạt động bình thường ( bơi lội mạnh trong 20 – 30 phút ) thì có thể thả toàn bộ giống vào hồ nuôi , nếu có hiện tượng bất thường ( lươn chậm chạp hoặc quằn xéo ) phải trì hoãn lại việc thả giống . Với Lươn trước khi thả vào hồ nuôi thương phẩm khử trùng sử dụng 3 - 5 % nồng độ muối ngâm trong 10 phút đến 15 phút , hoặc 2 - 5ppm thuốc tím , để loại bỏ một số các tác nhân gây bệnh và ký sinh trùng , và giúp tăng sức đề kháng với bệnh tật . Khử trùng cần được tiến hành tốt nhất trong một nơi thoáng mát , tránh tiếp xúc với ánh nắng mặt trời , sau giai đoạn khử trùng , kiểm tra hình ảnh vóc dáng lươn có thay đổi thích hợp không và để xem liệu có một con giống nào có tình hình bất thường để xác định loại trừ , sau đó thay đổi nước khử trùng trong thùng chứa giống chuyển tiếp để chuẩn bị cho thả . Thả theo thông số kỹ thuật khi phụ thuộc vào kích thước con giống , như vậy chúng sẽ không giết nhau . Cũng lưu ý rằng nhiệt độ nước trong hồ nên được giữ ổn định , chênh lệch nhiệt độ giữa ngày và đêm không nên quá 3 ℃ là thích hợp , Với một số khu vực có nhiêt độ nước dao động ngày đêm rộng cần phải điều chỉnh nhiệt độ nước phù hợp . ( lưu ý nhiệt độ môi trường nước tối ưu đễ Lươn ăn nhiều từ 25 – 28 ℃ ) .
3/ quản lý nuôi lươn khoảng một tuần bắt đầu thêm nước mới , và sau đó cứ mỗi 2 đến 3 ngày thêm nước 1 lần , mỗi lần từ 3 - 5 cm là thích hợp , sao cho mực nước được duy trì ở 25 cm chiều cao , những ngày hè nóng có thể tăng số lần thay nước ra và vào , mỗi lần từ 3 - 5 cm là thích hợp , để tránh nhiệt độ nước tăng cao .
Hồ nuôi được kiểm tra hàng ngày để có thể phát hiện con lươn nào bị bệnh kịp thời vớt ra phân tích nguyên nhân ( lươn bị bệnh thường là không bơi lội hoặc nổi trên mặt nước để thở ) và điều trị ở khu vực riêng . Thuốc điều trị Bệnh thông thường luôn có sẵn thuốc tẩy 1ppm hoặc Trichlorfon 0.2ppm , Quanchiposa ( 90 % loại tinh thể ) , thuốc dự phòng cần chuẩn bị với nhiều chủng loại khác nhau để thay đổi thường xuyên tránh sự đề kháng của tác nhân gây bệnh .
Tốc độ tăng trưởng của Lươn phụ thuộc vào chất lượng dinh dưỡng mồi cho ăn , Thường thì chúng được sử dụng với các loại cá tạp chăn nuôi , tôm , sâu , sò , ốc, … , và nguồn thức ăn này rất khó để đảm bảo sự tươi tốt và dễ bị ôi hỏng làm lươn dễ bị nhiễm bệnh . Chất dinh dưỡng tương đối đơn giản , cơ bản là dựa trên protein , và rằng sự ra đời của các thực phẩm chăn nuôi hàm lượng protein khác biệt là không cao . Cơ quan tiêu hóa lươn yếu , khi thực phẩm ôi lươn dễ bị bệnh. suy giảm sức đề kháng . Khác với Cá , Lươn không tiêu hóa hấp thu đặc biệt là cá đá , trai sò ốc còn lẫn vỏ , và chúng có thể dễ dàng gây viêm ruột cho Lươn . Với giun đất trong tự nhiên là dễ bị nhiều bệnh ký sinh trùng . Bởi vì giun đất sống trong môi trường ẩm ướt , đất đai màu mỡ , và một loạt trứng của các ký sinh trùng trong môi trường này xâm nhập vào giun đất gián tiếp gây nhiễm cho lươn . Nên lên kế hoạch nuôi giun đất có kiểm soát để làm nguồn thức ăn tươi dự trữ cho Lươn . Để nâng cao hiệu quả kinh tế nên chọn những con lươn giống kích thước lớn ( 15 -20 con/kg ) . để đạt được mục đích nuôi thương mại , việc liệt kê chọn lựa danh sách thức ăn dinh dưỡng hoàn chỉnh đầy đủ và dễ tiêu hóa cho lươn là cần thiết sao cho phù hợp với điều kiện địa phương . Cần chú ý Lươn không ăn mồi lạ , vì vậy khi cần thay đổi chủng loại thức ăn theo điều kiện kinh tế của từng vùng , từng thời kỳ thì nên pha trộn với mồi cũ theo tỷ lệ 25% , 1 tuần sau 50% …( không nên vội vàng thay đổi đột ngột ) .
Hiện nay trên thị trường chăn nuôi Lươn có ba loại thức ăn chính cụ thể là : dạng bột , dạng nguyên hạt và dạng vật liệu ép đùn . Dạng bột và các vật liệu hạt là chắc chắn có khả năng dư thừa tồn động gây ô nhiễm nguồn nước , đồng thời rất khó quan sát điều kiện ăn , và một số thiếu sót khác . Với thức ăn ép đùn , nó tạo sự ổn định cao trong nước , ô nhiễm nguồn nước là nhẹ , dễ dàng để quan sát tình hình nuôi , và vật liệu ép đùn qua khử trùng bằng nhiệt độ khi chế biến , không mang vi khuẩn , dễ dàng phối trộn bổ sung thêm một số dược phẩm như men tiêu hóa , vitamin , kháng sinh …là sản phẩm tối ưu của sự lựa chọn thức ăn trong chăn nuôi thủy sản nói chung và nghề nuôi Lươn thương phẩm nói riêng . .
Thứ năm, các bệnh chính và điều trị
1/
Xuất huyết
Nguyên nhân không rõ, là bản chất nhiễm khuẩn huyết, ăn giun đất lươn dễ bị bệnh thứ phát xuất huyết do các bệnh ký sinh trùng dễ dàng và ruột .
( 1 ) Triệu chứng: Có chất lỏng như máu tuôn ra từ miệng , Bề mặt ngoài đặc biệt là ở vùng bụng chảy máu nhiều , , sưng hậu môn , lươn bị bệnh thường có biểu hiện hơi thở sâu , nông dân địa phương gọi là " cọc thẳng đứng " , tiếp tục quay vòng tròn , mổ bụng , thấy chảy máu gan , lá lách to màu tím, chảy máu trực tràng .
( 2 ) Điều trị
A, Furazolidone Quanchiposa 0.2ppm ~ 0.35ppm (sử dụng bột nguyên furazolidone ) .
B. Uống norfloxacin 5 g / 100 kg cá , các loại gia vị .
C. Thuốc lá Quanchiposa 30 cm / độ sâu của hồ nước với 250 g hòa nước ấm ngâm trong 5-8 giờ .
D. Erythromycin 250.000 đơn vị nhúng lươn bệnh .
Trên A, B có thể được sử dụng đồng thời , A và C được sử dụng thay thế cho nhau ngày hôm sau , ngày 3 đến 5 ngày một lần .
2/
Bệnh da đỏ
( 1 ) Triệu chứng : lươn bị bệnh di chuyển chậm và yếu , sẽ đi ra khỏi nước trong suốt cả ngày , chảy máu viêm , da ngoài lốm đốm màu đỏ chủ yếu là vùng bụng , da bị mục nát nghiêm trọng , tắc nghẽn đường ruột và viêm , và sự khác biệt với bệnh xuất huyết là không phải chuyển động tròn .
( 2 ) Điều trị
A.1ppm thuốc tẩy giải pháp Quanchiposa mỗi ba ngày một lần .
B. Erythromycin nhúng bệnh lươn .
3/
Bệnh đường ruột
Chủ yếu là ăn trai thối , cá đá hoặc vì không đủ thức ăn , quá nhiều nguyên nhân đói .
( 1 ) Triệu chứng: Các hoạt động chậm, không ăn , cơ thể màu Qinghei , giảm cân , tắc nghẽn đường ruột , với dòng chảy chất nhầy màu vàng, hậu môn sưng nổi bật , nghiêm trọng thì ngã sang màu tím.
(2) Điều trị cho nước hồ : thường mỗi 100 kg Lươn , Allicin ( tỏi ) hoặc Polygonum ( một loại thảo dược ) mổi hồ 5 kg . 100 kg lươn thêm bạc hà 3 - 4 kg hòa nước nóng 1 : 7 tạt vào hồ nuôi 10 ngày/lần .
Điều trị cá mỗi một trăm kg :
A. Nhân ShiDiShui 20 ml trộn chung với các loại thực phẩm cho Lươn ăn .
B. sulfa gung 10 g × 3 ngày/lần thoa trên lớp ngoài bề mặt .
C. norfloxacin 5 g × 3 - 5 ngày/lần thoa trên lớp ngoài bề mặt .
4/
Capillariasis , cột sống đầu echinococcosis tác nhân gây ra chủ yếu là cho ăn giun đất , sâu trắng mảnh mai , dễ gây viêm ruột .
( 1 ) Điều trị:
A.90 % tinh Trichlorfon 0.5ppm ~ giải pháp 0.7ppm Quanchiposa tạt nước tưới bắn đều lên mặt hồ ( nên được chuẩn bị tốt , bởi vì lươn là rất nhạy cảm với Trichlorfon nếu không tạt mỏng đều số lượng cho toàn bộ hồ , làm không đúng cách sẽ dễ gây ra cái chết cho Lươn , Trichlorfon cấm uống ) .
B. Mỗi 50 kg lươn với Levamisole 5 g ~ 7,5 g × 6 ngày/lần hoặc Albendazole cùng một liều lượng .
C. Đồng + ferrous sulfate ( 5:2) 0.7ppm hỗn hợp Quanchiposa diệt ký sinh trùng .
5/
Trypanosomiasis dễ dàng gây ra bệnh thiếu máu , số lượng lớn . Điều trị ( 4) giống như
Capillariasis .
6/
Bệnh thối đuôi chủ yếu là tình trạng thiếu thực phẩm, ăn thịt người hoặc tự cắt xén , nhặt nhúng cá với erythromycin hoặc thuốc tẩy tràn 1ppm .
7/
Tình trạng hôn mê rối loạn chủ yếu là do thời tiết nắng nóng , nhiệt độ cao , dẫn đến cạn nước sạch, có thể được bổ sung vào số lượng nghêu tươi xắt nhỏ ném vào hồ bơi , hoặc bầu bí tươi xắt nhỏ ném.
8/ Nhiệt độ nước bị lạnh , hoặc những thay đổi đột ngột môi trường nước , gây ra rối loạn sinh lý của Lươn , dễ gây ra cái chết , giữ mức nước và thay nước hợp lý .
9/ Sốt chủ yếu là mật độ thả quá cao , thời tiết nóng , thiếu oxy , nước không được sạch sẽ , dư lượng thức ăn cá , nghêu , còn tồn đọng bốc mùi . Phương pháp kiểm soát là một là thay đổi nước, 2 là tạt mỏng đều với đồng sunfat 0.7ppm hoặc 25 kg nước 300.000 đơn vị của penicillin .
Qua quá trình tìm hiểu lúc đấu mình thấy không hiểu lắm về đặc tính sinh học của loài này :
Lươn thì thường ăn vào ban đêm , và nhiệt độ thích hợp để lươn ăn mạnh lại từ 25 - 28 độ C .
Ban đêm thì sao mà ấm hơn ban ngày được nhĩ ???
và khi đối chiếu với tuổi thơ mổi khi về miền quê ở Nam bộ thì mình lại thấy rất logich về nhiệt độ môi trường và thời gian ăn của Lươn : thông thường chiều tối thì khu vực ven sông , nước ròng lộ một dãy dài bùn đất , những con cá nhỏ , tôm tép , sò ốc hến khi nước rút bị mắc cạn có lẽ là những mồi ăn phong phú cho loài Lươn . Và khi nước ròng thì môi trường bùn đất sẽ ấm hơn là khi có nước . Nếu Ta biết khai thác được những đặc tính này kết hợp với men tiêu hóa ( để tránh bội thực ) mình nghĩ chúng sẽ ăn khỏe và tăng trọng nhanh thôi các Bạn nhỉ .
- Trong ngành chăn nuôi gà và trồng Thanh Long mình thấy người ta cũng khai thác đặc tính sinh học của chúng bằng cách thắp đèn ( không cho ngủ ) tạo ra năng suất và lợi nhuận đáng kể . Lĩnh vực Nông nghiệp cũng có những bí ẩn thật tuyệt phải không các Bạn !
Thêm một số đặc tính thú vị của loài này :
1/ Mắt Lươn rất kém bù lại khứu giác của chúng rất mạnh ( mối cho ăn cần có mùi mạnh sẽ dễ dẫn dụ chúng ăn )
2/ Lươn là loài lưỡng tính : trong môi trường tự nhiên , từ khi mới sinh ra chúng toàn là con cái , sau khi tăng trọng đến kích cở khoảng 150 - 200g thì tỷ lệ chuyển đổi giới tính mới bắt đầu xảy ra và cũng chiếm tỷ lệ nhỏ khoảng 15 - 20% thôi , sau khi trưởng thành với trọng lượng trên 300g thì hầu như toàn đực .
3/ Tỷ lệ phối giống sinh sản nhân tạo cũng sướng thật 1 ông mà cần đến 2-3 bà lận và các bà thì rất khỏe , sinh xong là hết trách nhiệm , con thì để các ông bảo vệ và chăm sóc Hi..hi..
Sau khi thả mồi cho Lươn ăn ban ngày người ta kéo lưới phủ che sáng , chắc chúng sẽ ăn ngon miệng hơn ???