Kỹ thuật nuôi lươn

  • Thread starter Guest
  • Ngày gửi
G

Guest

Guest
Lươn là loài cá sống chui rúc ở
dưới bùn. Tùy điều kiện: địa hình, cách quản lý chăm sóc, chọn giống, thức ăn,
phòng trị bệnh tật... mà có các hình thức nuôi khác nhau.


Kỹ thuật ươm nuôi lươn thịt


 



Lươn là loài cá sống
chui rúc ở dưới bùn. Tùy điều kiện: địa hình, cách quản lý chăm sóc,
chọn giống, thức ăn, phòng trị bệnh tật... mà có các hình thức nuôi
khác nhau.

1. Bể nuôi lươn: Bể
nuôi lươn phải phù hợp với điều kiện sống tự nhiên của lươn, đảm bảo độ
cao để lươn không vượt qua được, không nên xây bể quá rộng. Chiều dài
của mỗi bể nuôi có thể từ 2 - 5 m. Chọn nơi dễ lấy nước vào và thoát
nước ra.

Bể được xây chìm dưới
mặt đất từ 20 - 40 cm, đáy đổ lớp bùn nhuyễn, khoảng 20 - 40 cm, lớp
nước 10 - 20 cm.. Trong bể , bố trí một nơi cố định làm chỗ cho lươn
ăn, để tiện việc vệ sinh. Bể nuôi lươn có thể làm mái che thoáng, hoặc
giàn cây leo phía trên, hoặc thả bèo tây chiếm 1/2 diện tích mặt nước.

Đáy ao bằng đất sét
trộn với cát vôi. Cách đáy ao khoảng 40 cm có lỗ cống thoát nước hình
tròn, miệng cống có thiết bị chắn cho lươn không trốn đi. Bể xây cao 1
- 1,5 m. Đáy cho một lớp đất giàu mùn, dày 20 - 30 cm, thả thêm rong
làm tổ cho lươn.

Thành bể cao hơn mặt nước 30 cm. Mép tường trên có gờ để chống lươn tuồn ra ngoài.

2. Ao nuôi lươn

Chọn nơi đất cứng,
đào sâu 20 - 40 cm, bờ cao 40 - 60 cm rộng 1 m, bờ và đáy ao phải nện
chặt, có điều kiện lót khắp đáy ao một lớp giấy dầu và một lớp ni lông
và bờ tường rồi phủ một lớp bùn hay bùn trộn cỏ, dày 20 - 30 cm. Trong
ao có thể thả một ít bèo tây hay bèo cái làm nơi trú ẩn cho lươn.

Xung quanh ao trồng
một ít cây có giàn để che mát. Ở ao lớn có thể thả thêm bó rơm, cỏ mục
trong ao, lươn thích rúc vào đó tìm mồi ăn.

Mức nước ở ao ngập 10 - 15 cm để lươn nằm trong hang luôn ngóc đầu lên thở và đớp mồi, mức nước sâu quá ảnh hưởng đến sức lớn.

3. Thả lươn giống:
Mua lươn giống ở chợ về phải chọn kỹ, (mỗi kg khoảng 30 - 40 con) thân
hình khỏe, không bị thương, không mua lươn câu để làm lươn giống. Trước
lúc thả cần sát trùng lươn giống để trị bệnh nấm hoặc bệnh ký sinh
trùng.

4. Mật độ thả: Dùng
vôi tẩy ao trước khi thả 7 - 10 ngày, cho 0,2 kg/m 2 ao để diệt các mầm
bệnh. Lươn giống cỡ 10 - 15 cm, thả mật độ 50 - 60 con/m 2 (1 - 1,5
kg/m 2 ), thả cùng cỡ.

5. Thức ăn: Dùng thức
ăn sẵn có, rẻ tiền như sâu bọ, giun, nòng nọc, nhộng tằm, tôm tép, cá
vụn, phế phẩm các lò mổ, thịt trai, hến... Không cho lươn ăn thức ăn đã
ươn thối. Hệ số thức ăn 7 - 8/1 với giun đất, 10/1 với thịt trai,
hến...

6. Chăm sóc ao nuôi: Mùa lớn của lươn từ tháng 4 - 10, lớn nhanh từ tháng 5 - 9. Quá trình chăm sóc cần chú ý:

- Cho ăn định giờ và
định lượng: Lượng thức ăn cho mỗi ngày bằng 5 - 7% trọng lượng lươn
trong ao. Hàng ngày cho ăn lúc 6 - 7 giờ tối, sáng hôm sau vứt bỏ thức
ăn thừa đề phòng thối nước ao. Thời kỳ đầu cần luyện cho lươn con quen
ăn được nhiều loại thức ăn, tránh cho ăn mãi một loại thức ăn, lươn sẽ
không ăn loại khác.

- Luôn giữ nước ao
trong sạch: Khi ao bị thối bẩn, cần thay nước ngay. Nên trồng các loại
cây chịu nước để làm sạch nước, tạo môi trường sinh thái thích hợp. Khi
mưa to, tháo bớt nước tránh làm tràn lươn đi mất. Mùa hè làm giàn che
trên mặt ao.

- Bón phân: Đến mùa
sinh sản cần thả các bó cây khô vào ao để lươn cái sau khi đẻ thì lươn
con bám vào đó, vớt lươn con sang nuôi ao khác, lươn con ăn chủ yếu
động vật phù du nhờ bón phân.

- Nuôi lươn qua đông:
Cuối mùa thu, đầu mùa đông, khi nhiệt độ nước xuống thấp 10 - 12 o C
lươn ngừng ăn và chui xuống bùn. Tháo cạn nước ao chỉ còn nước sâm sấp
mặt bùn, phủ dày rơm rạ lên trên, lươn rúc trong bùn được che ấm.

- Phòng lươn bò trốn:
Lươn rất hay bò đi nơi khác nhất là lúc trời mưa liên tục, lỗ cống bị
thủng hay đáy ao bị nứt nẻ. Phải thường xuyên kiểm tra, kịp thời sửa
chữa.

Phòng gia súc, gia cầm ăn hại. Buổi tối lươn hay ngoi lên cạn có thể bị mèo, chuột bắt ăn.

<i>Phương pháp nuôi ghép lươn với trùn (giun) hoặc ba ba, ruà <o:p /></i>

Cách nuôi này đơn giản, đầu tư ít, hiệu quả kinh tế cao, đã thực hiện ở Trung Quố c.

1. Ao xây: Ao xây
bằng gạch có trát xi măng thật nhẵn. Diện tích ao từ 30, 50 hay 80 m 2
. Tường cao 0, 8 - 1m, có cống cấp nước, phía đối diện mở cống thoát
nước. Miệng cống chắn bằng lưới sắt.

2. Lên liếp: Liếp
rộng 1,5 m, cao hơn mặt nước 25 cm, cách nhau bằng rãnh nước sâu 20 cm.
Các rãnh thông với nhau, đầu vào chung qua cửa cấp nước, đầu ra chung
một cửa thoát nước. Dùng loại đất màu chứa nhiều mùn hữu cơ để đắp lên
mặt liếp tạo cho giun dễ sinh sản và lươn dễ chui rúc kiếm mồi.

3. Nuôi giun : Cho
nước ngập rãnh 5 - 10 cm, cấy giun giống vào liếp. Mật độ 2,5 - 3 kg/m
2 . Rải phân chuồng đã ủ hoai lên mặt liếp để tạo môi trường cho giun
sinh sản, cách 3 - 4 ngày thay vào lớp phân mới 4 - 5 kg/m 2 (vẫn phân
chuồng ủ hoai). Sau khoảng 14 ngày thấy giun phát triển dày đặc bắt đầu
thả lươn giống vào rãnh.

4. Mật độ thả lươn giống: Mật độ thả: 3 - 4 kg/m 2 , tỉ lệ sống trên 90% khi thu hoạch 6 - 10 con/1 kg.

5. Quản lý, chăm sóc:
Suốt trong quá trình nuôi, rãnh nước giữ mức sâu khoảng 10 cm và luôn
chảy nhẹ. Giun nuôi phát triển liên tục, lươn tự rúc bắt giun ăn, không
phải cho ăn bất cứ loại thức ăn nào khác.

6. Thu hoạch: Tùy
theo mật độ nuôi và điều kiện chăm sóc... nuôi lươn ở các hình thức
trên, năng suất bình thường đạt 5 - 10 kg lươn/1 m 2 .

<i>Nuôi với ba ba, ruà<o:p /></i>

Hiện nay, để tăng
năng suất nuôi trồng, việc thực hiện nuôi ghép nhiều giống loài thủy
sản thường được áp dụng. Ở Giang Tô (Trung Quốc), đã sắp xếp các ao
nuôi thành ba cấp:

- Ao cấp 1: Là nuôi lươn và thả bèo tấm ở trên mặt nước có tác dụng làm sạch nước và lấy bèo để nuôi ao cấp 2.

- Ao cấp 2: Nuôi ba
ba và ốc Cipangopuludina chinensis, ốc ăn bèo tấm, thịt ốc làm thức ăn
cho ba ba. Nước thải và thức ăn thừa ở ao cấp 1, 2 chảy sang ao cấp 3.

- Ao cấp 3: Nuôi rùa kết hợp với nuôi dòi, nuôi giun. Dòi và giun làm thức ăn cho lươn, ba ba, rùa.

Phương pháp trên đã hạ giá thành và đã lợi dụng tổng hợp vòng tuần hoàn sinh thái.

<i>Phòng chữa bệnh cho lươn<o:p /></i>

Ngoài thiên nhiên lươn có sức chịu đựng cao nhưng nuôi với mật độ dày lươn dễ bị bệnh.

a. Nguyên nhân do
lươn bị xây xát khi vận chuyển, nhiệt độ thay đổi đột ngột, do kí sinh
trùng gây ra, hay chế độ chăm sóc chưa hợp lý.

b. Phòng bệnh: phòng
bệnh là chính. Chọn Lươn giống không bị xây xát. Trước khi thả lươn,
làm vệ sinh bể (ao) nuôi, phải tắm lươn giống bằng nước muối với nồng
độ 3 - 4% trong 5 phút, hay Oxyclorit canxi có nồng độ 10 ppm, thực
hiện cho ăn đủ lượng đủ chất và đúng giờ.

c. Một số bệnh thường gặp

1. Bệnh sốt nóng: Do nuôi với mật độ. Khi nhiệt độ nước tăng lên làm hàm lượng oxy giảm.

* Triệu chứng: Lươn
bị xáo động trong bể, dịch nhầy tiết vào trong nước, độ nhớt của nước
tăng lên, đầu lươn sưng phồng to, lươn chết hàng loạt.

* Phòng trị: Giảm mật độ nuôi, thay nước, thả tạm vài con cá trê để chúng ăn thức ăn thừa, đảm bảo tốt chất lượng nước.

2. Bệnh lở loét: Nguyên nhân do ký sinh trùng, vi trùng bám vào vết thương.

* Triệu chứng: Trên
mình lươn xuất hiện nhiều vết tròn hay hình bầu dục. Da bị lở loét gọi
là bệnh đóng dấu, nếu bị nặng đuôi lươn bị rụng, bơi lội khó khăn,
thường xảy ra vào tháng 5 - 9.

* Phòng trị: Trước khi nuôi, sát trùng ở bể bằng vôi, vào mùa hay mắc bệnh cần phun thuốc Streptomycin ở toàn bể.

3. Bệnh nấm thủy mi:
Do mốc ký sinh trên mình hay trứng lươn gây ra, thường xảy ra vào mùa
xuân - thu, sợi hình bông bám vào lươn để hút dinh dưỡng.

* Phương pháp phòng
trị: Trước khi thả lươn, vệ sinh bể nuôi, bằng vôi hòa tan đều, tưới
vào bể. Ngâm lươn vào trong nước muối, ngâm trứng lươn vào dung dịch
xanh methylen.

4. Bệnh tuyến trùng: Do ký sinh trùng đường ruột gây nên.

* Triệu chứng: tuyến
trùng màu trắng dài khoảng 1 cm đầu bám vào niêm mạc phá hoại mô, hình
thành bào nang gây viêm ruột sưng đỏ. Nếu ký sinh với khối lượng lớn,
lươn yếu, hậu môn sưng đỏ, sẽ chết dần.

* Phòng trị: dùng Dipterex trộn vào thức ăn cho lươn ăn

5. Bệnh đỉa: Do đỉa
bám vào để phá hoại mô bì, hút máu lươn khiến cho vi trùng xâm nhập gây
viêm nhiễm, lươn yếu, chậm chạp, kém ăn, ảnh hưởng đến sinh trưởng của
lươn.

* Phòng trị: Dùng Dipterex hay dùng dung dịch Sunphat đồng ngâm rửa.

<i>Sản xuất lươn giống<o:p /></i>

Muốn có đủ lươn giống, phải chủ động vừa lấy giống ngoài thiên nhiên vừa cho lươn đẻ nhân tạo.

1. Lấy giống ngoài
thiên nhiên về ương nuôi: Hàng năm, đến mùa lươn đẻ, tìm ở mép bờ ao,
bờ mương nơi các khe hở có các khối bọt trắng - đối diện là các lỗ hút
để phát hiện lươn con. Dùng vợt xúc lươn con đem về thả vào các khay
men, chậu nhựa, cho ăn lòng đỏ trứng luộc chín và giun đỏ.

Ở miền <st1:country-region w:st="on"><st1:place w:st="on">Nam</st1:place></st1:country-region>
, đầu mùa mưa, lươn con thường nằm ở các đám cỏ, bèo tây trôi theo dọc
dòng sông ở các hồ, đầm, kênh... dùng vợt, rổ, xúc về nuôi.

* Vớt trứng về ấp

Dùng gáo, vợt có mắt
lưới dầy để vớt các ổ trứng cho vào thùng có sẵn nước đưa về bể ấp. Khi
nhiệt độ nước 25 - 30 o C, sau một tuần trứng nở thành lươn con, vớt
lươn con ra ương ở ao, thức ăn là giun, dòi, ốc băm nhỏ.

Nếu được chăm sóc tốt, lươn con đạt cỡ 20 g/con.

2. Nuôi lươn cho đẻ ở bể xây

Tại Trạm Nghiên cứu cá nước ngọt Đình Bảng (Hà Bắc), đã nuôi thử lươn cho đẻ.

Cần tạo điều kiện môi trường sống của lươn gần với điều kiện sinh sản ở ngoài thiên nhiên.

- Xây bể.

Xây bể bằng gạch, diện tích: 3 m 2 , cao 1,4 m, rộng 1,5 m, dài 2 m.

Đáy bể cho một lớp
bùn dầy (D) để lươn tránh nóng, tránh rét. (A) khoảng 1/3 thể tích của
bể cho đất pha sét, dày 60 cm. (B) lớp đất thịt dầy 20 cm làm bờ, trồng
vài cây khoai nước, làm nơi lươn đẻ. (C) lớp nước bể sâu khoảng 40 - 50
cm, trên mặt thả ít bèo tây.

Giữa bể có cũi làm bằng tre, có thể kéo lên xuống làm nơi cho lươn ăn để dễ kiểm tra.

Thả 20 con lươn cỡ 30 - 40 cm đang mùa lươn đẻ.

- Cho ăn: ngày 2 lần.

Thức ăn bằng động vật như: ốc sên, cá băm nhỏ, dòi. Thức ăn bằng thực vật như: rau muống, bèo tấm ủ chua trộn với cám, bã đậu.

Mỗi lần cho ăn khoảng 100 - 300 g.

Mỗi tuần thay nước một lần.

- Sau 30 ngày nuôi
thấy 4 tổ lươn đẻ (hiện tượng nổi bọt ở gốc cây khoai lang). Sau 1
tháng bắt được 300 lươn con, cỡ 8 - 12 cm bám ở rễ bèo Nhật Bản.

- Sau 2 tháng nuôi lươn thịt với mật độ 30 con/m 3 (cỡ 20 - 30 cm), trọng lượng lươn tăng 50% so với lúc thả.

<i>(Theo kỹ sư Ngô Trọng Lư)</i>
 


Last edited:


Back
Top