bác tỉa cá bán vây bác có thả bù zo nuôi tiếp không?con cá này cũng thuộc loại cá kinh tế nước măn mà có vẻ việc nuôi nó chưa được phổ biến lăm không biết là do kinh phí đầu tư cao hay kĩ thuật nuôi khó khăn nữa.chỗ bác có nhiều người nuôi loại cá này không bác exciter?ah cá mú nghệ bác nói có phải là cá mú chấm đỏ không
---------------
Để mọi người tìm hiểu sơ qua về con cá này mình xin trích một ít tài liệu để mọi người cùng đọc tham khảo.
Hiện nay trên thế giới đã phát hiện được trên 400 loài cá mú. Ở Việt nam, có 30
loài cá và phân bố khắp nơi. Kích thước của các loài cá đa dạng, có loài chỉ dài 20 cm
và nặng 100 g, song cũng có loài có thể đạt đến 1,5 m và nặng trên 300 kg.
Cá mú có màu sắc rất sặc sỡ, tuy nhiên tùy từng loài khác nhau mà màu sắc
cũng khác biệt và đây cũng là một trong những đặc điểm phân biệt của chúng. Cá mú
có thân hình khoẻ mạnh, dẹp hai bên, miệng lớn và có thể co duỗi, hàm lồi ra. Răng
trong của hai hàm tương đối lớn và có thể ẩn xuống, răng chó với số lượng không
nhiều và ở phía trước hai hàm. Viền sau xương nắp mang trước có răng cưa, viền dưới
hàm trơn láng, xương nắp mang có hai gai to. Lược mang ngắn và số lượng không
nhiều. Vẩy lược bé, có một số ẩn dưới da, bộ phận tia vây lẻ ít nhiều đều có vẩy,
đường bên hoàn toàn. Vây lưng có XI gai cứng và 14-18 tia mềm. Vây hậu môn có III
gai cứng và 7-9 vi mềm. Vi đuôi mềm hoặc bằng phẳng, đôi khi lõm vào trong. Vây
bụng có I gai cứng và 5 tia mềm.
Một đặc điểm điển hình của nhóm này là cá rất dữ, có tính ăn thịt và bắt mồi
theo phương thức rình mồi. Cá có tính hoạt động về đêm, ban ngày ít hoạt động mà ẩn
nấp trong các hang đá, rạn san hô, thỉnh thoảng mới đi tìm mồi. Tuy nhiên, khi được
thuần dưỡng trong điều kiện nuôi, cá có thể ăn được cả vào ban ngày.
Một hiện tượng khá lý thú là có sự chuyển đổi giới tính ở nhóm cá này. Khi còn
nhỏ chúng là cá cái, nhưng khi đạt đến kích cỡ và tuổi nhất định thì chuyển thành cá
đực. Cá có kích cỡ dài 45-50 cm trở lại thường là những cá cái, trong khi trên 74 cm
và nặng trên 11kg trở thàng cá đực. Hiện tượng lưỡng tính thường tìm thấy ở cá kích
cỡ 66-72 cm. Cá mú có thể đẻ quanh năm, nhưng tập trung vào những tháng lạnh,
nhiệt độ thấp, vì thế tùy từng vùng khác nhau mùa vụ xuất hiện cá giống cũng khác
nhau. Sức sinh sản của cá khá cao, mỗi con cái có thể đẻ từ vài trăm ngàn đến vài triệu
trứng.
Ở nước ta những loài có giá trị kinh tế cao và được nuôi như: Cá mú chấm đỏ
(Epinephelus akaara), Cá mú chấm tổ ong (E. merra), Cá mú hoa nâu (E.
fuscoguttatus), cá song mỡ (E. tauvina), cá song Bleekeri (E. bleekeri), cá mú dẹt
(Cromileptes altivelis)
Cá mú chấm đỏ (Epinephelus akaara)
Cá có hình thoi, dẹt bên, chiều dài bằng 2,7-3,2 lần chiều cao. Mõm nhọn, miệng
rộng, sắc nhọn. Vây đuôi lồi, màu hồng xám, có nhiều chấm nhỏ. Chiều dài thông
thường 30 cm, tối đa 60 cm. Cá phân bố ở vùng biển Ấn Độ, Indonesia, Nhật bản,
Trung Quốc. Ở nước ta, cá phân bố từ Bắc vào Nam. Sống chủ yếu ở các rạn san hô,
sâu 20-50 m. Nhiệt độ thích hợp 22-28oC. Cá chuyển giới tính từ năm thứ 4, với kích
cỡ 28-34 cm, năng 0,5-1 kg.
cá mú hoa nâu (Epinephelus fuscoguttatus)
Cá có kích thước lớn, cỡ khai thác trung bình 40-70 cm, tối đa 120 cm. Cá có
răng hàm dưới từ 3 hàm trở lên. Cá nhỏ bình thường có 5-6 sọc đen dọc vây lưng. Trên
lưng có nhiều đốm đen nhỏ. Cá lớn các sọc lớn ra, phân bố khắp thân làm mình cá có
màu đen.
Trong tự nhiên có thể bắt gặp cá trong rạn san hô ở độ sâu 60 m, cá nhỏ có thể
sống nơi cạn hơn. Ở miền Trung, cá phân bố nhiều ở Bình Thuận, Khánh Hòa, Quy
Nhơn. Đây là các loài cá có tốc độ lớn nhanh, với kích cỡ 30-50 gam, sau 6-8 tháng
nuôi có thể đạt 0,5-1 kg/con.
Cá mú chấm tổ ong (E. merra)
Đây là loài có kích cỡ trung bình. Kích cỡ khai thác thông thường từ 20-30 cm,
cá lớn nhất có thể đạt đến 50 cm. Toàn thân hình có rất nhiều chấm đen hạt dẻ, có lúc
hình thành 6 cạnh được giới hạn bằng những đường vàng nhạt như tổ ong. Đôi khi
cũng có một số chấm trắng. Trên gốc vây lưng và sóng cuống đuôi, các đốm này
thường có màu hơi đỏ. Cá phân bố ở vùng cửa sông và xuất hiện nhiều ở khu vực miền
Trung vào tháng 2-7.
Cá song mỡ (Epinephelus tauvina)
Đầu và thân cá có màu xanh nhạt hay màu nâu với các chấm tròn có màu đỏ,
gạch hay nâu tối. Các chấm này có rìa nhạt, trung tâm màu đậm hơn. Có một vết đen
trên lưng, dưới gốc gai 4 đến gai cuối của vây lưng. Cá có chiều dài thông thường 50
cm, lớn nhất là 75 cm, năng 12 kg. Cá phân bố ở vùng Ấn Độ - Thái Bình Dương. Ở
nước ta, cá phân bố dọc bờ biển từ Bắc vào Nam. Cá thường sống ở các rạng san hô,
24nơi có độ sâu 1-300 m, thường khoảng 50 m, độ mặn 15-32 ‰, nhiệt độ 20-30oC. Cá
lớn nhanh trong 3 năm đầu. Cá bắt đầu chuyển đổi giới tính khi đạt chiều dài 65-75
cm.
Cá song Bleekeri (Epinephelus bleekeri)
Cá có thân hình thon dài, dẹt bên. Chiều dài bằng 3-3,5 lần chiều cao. Thân có
màu nâu sáng, phần bụng nhạt hơn phân lưng. Phía dưới vây đuôi và rìa vây hậu môn
có màu rất đặc trưng, nâu hay nâu đậm. Kích cỡ lớn nhất là 76 cm, thông thường bắt
gặp 30-50 cm. Cá phân bố vùng Ấn Độ - thái Bình Dương. Ở nước ta, cá phân bố từ
vinh Bắc Bộ đến Khánh Hòa. Cá thích sống nơi có độ sâu 5-100 m, nhiệt độ 15-32oC.
Cá mú dẹt (Cromileptes altivelis)
Cá có hình thoi, dẹt bên. Chiều dài thân gấp 2,6-3 lần chiều cao. Mõm nhọn,
đỉnh trán lõm xuống. Vây đuôi lồi và tròn. Toàn thân màu nâu xám với nhiều chấm đen
nâu. Chiều dài thông thường 40-50 cm, lớn nhất 70 cm. Cá phân bố ở khu vực Tây
Thái Bình Dương và Đông Ấn Độ Dương. Cá sống nơi có độ sâu 2-40 m, ven các rạn
san hô.