Thành phần dinh dưỡng trong thức ăn thủy sản

  • Thread starter ngoctule
  • Ngày gửi
N

ngoctule

Guest
Trong thức ăn thủy sản, các thành phần dinh dưỡng bao gồm protein, lipid, carbonhydrate, chất xơ, chất khoáng, vitamin và các axit amin. Cung cấp đầy đủ dinh dưỡng sẽ giúp vật nuôi tăng trưởng nhanh, hiệu quả nuôi trồng cao.
Chất đạm (protein)
Protein là chất hữu cơ xây dựng nên cấu trúc cơ thể vật nuôi. Protein được hấp thu vào máu tổng hợp thành protein mới thay thế protein cũ. Nhu cầu protein của cá 25 - 55%; tôm, cua 30 - 60%. Nhu cầu protein của tôm, cá phụ thuộc nguyên liệu thức ăn, giai đoạn phát triển tôm cá và nhiều yếu tố khác. Thành phần protein trong thức ăn thủy sản (TĂTS) chủ yếu được cung cấp từ động vật, thực vật.
Protein động vật: Gồm bột cá, bột thịt xương, bột huyết; trong đó, bột cá là nguồn cung cấp protein tốt nhất cho tôm, cá. Bột cá chủ yếu được làm từ cá biển, có hàm lượng protein 45 - 80% và chứa đủ các axit amin cần thiết. Đặc biệt, trong bột cá có nhiều axit béo cao phân tử không no (HUFA) thiết yếu cho tôm cá. Thức ăn công nghiệp có sử dụng nguyên liệu từ bột cá thì thức ăn sẽ có mùi hấp dẫn hơn.
Protein thực vật: Là những hạt có dầu như đậu nành, đậu phộng (lạc), hạt bông vải… Nhiều nghiên cứu cho thấy bột đậu nành có thể thay thế 60 - 80% bột cá trong khẩu phần TĂTS. Hiện, bột đậu nành sử dụng làm TĂTS có hàm lượng protein 47 - 50%.

z300-Thuy-san-Viet-Nam2717-.jpg


Trong nuôi thủy sản, thức ăn thường chiếm 50 - 60% tổng chi phí đầu tư - Ảnh: Lê Hoàng Vũ

Chất béo (lipid)

Trong TĂTS, lipid chiếm 10 - 25% và năng lượng do lipid cung cấp gấp đôi so với protein. Lipid tham gia cấu tạo nên màng tế bào cơ thể tôm cá, ngoài ra nó còn là dung môi hòa tan các Vitamin A, D, E, K và hydrocarbon. Lipid có khả năng hoạt hóa enzyme và là thành phần chính của nhiều steroid hormone. Lipid có nhiều trong bột cá, bột huyết, bột đậu nành và ít hơn ở bột cám, ngũ cốc, bao gồm các acid béo và triacylglycerol. Cá thường có nhu cầu cao với các axit béo không no omega - 3 và omega - 6. Các loại dầu từ hải sản thường chứa tỷ lệ cao axit không no PUFA (>30%), là loại chất béo lý tưởng cho chế biến TĂTS. Trong chế biến TĂTS lipid rất dễ bị ôxy hóa; do vậy, các nhà sản xuất TĂTS phải dùng các chất bảo quản như ethoxyquin hay BTH để thức ăn không bị ôi thiu.
Carbonhydrate
Carbonhydrate bao gồm đường và tinh bột, là nguồn năng lượng rẻ nhất trong thức ăn. Tuy không là chất dinh dưỡng thiết yếu nhưng việc bổ sung carbonhydrate giúp giảm giá thành thức ăn và tăng khả năng kết dính trong quá trình đùn ép viên thức ăn. Thành phần tinh bột trong thức ăn giúp sản xuất thức ăn viên nổi khi được đùn ép ở điều kiện nhiệt độ cao. Nấu hoặc hấp chín tinh bột sẽ tăng cường khả năng hấp thụ ở tôm, cá nuôi. Tinh bột sau khi ăn vào được tôm cá sử dụng cho nhu cầu năng lượng cơ thể và dự trữ dưới dạng glycogen trong gan và cơ. Thông thường 20% tinh bột có thể dùng để phối chế trong khẩu phần thức ăn tôm cá.

Chất xơ

Là thành phần phổ biến trong thức ăn các loại ngũ cốc; bao gồm cellulose, hemicellulose, pectin, gum và các chất nhầy trong thức ăn. Chất xơ kích thích nhu động ruột làm thức ăn di chuyển dễ dàng để đào thải cặn bã, độc hại ra ngoài. Trong thức ăn, chất xơ có tác dụng như chất pha loãng thức ăn. Chất xơ nhiều sẽ làm giảm khả năng kết dính khi ép viên thức ăn. Thức ăn của cá tỷ lệ chất xơ không quá 7%, thức ăn của tôm tỷ lệ chất xơ không quá 4%.

Chất khoáng

Chất khoáng được chia làm 2 nhóm, đa lượng và vi lượng. Khoáng đa lượng bao gồm natri, clo, canxi và phốt pho (Na, Cl, Ca, P), có tác dụng cấu tạo nên bộ xương cá và vỏ tôm, điều hòa áp suất thẩm thấu, duy trì ổn định pH, tham gia quá trình co cơ, dẫn truyền thông tin thần kinh… Tôm cá có khả năng hấp thụ chất khoáng (Na, Clo, Mg…) qua mang và da để bù đắp những thiếu hụt nếu bổ sung từ thức ăn không đủ. Mức Ca bổ sung tối đa trong thức ăn tôm là 2,3%, mức P 1 - 2%. Ở cá, và mức P cho các loài thủy sản khác 0,29 - 0,8%. Nhóm khoáng vi lượng, tôm cá cần với lượng rất ít nhưng có vai trò quan trọng trong việc tạo ra enzyme, hormone, điều hòa quá trình sinh tổng hợp protein. Một số loại khoáng quan trọng như đồng, crôme, kẽm, iốt, magiê đã được bổ sung trong thức ăn công nghiệp giúp tôm, cá nuôi tăng trưởng tốt.

Vitamin

Bao gồm 2 nhóm là vitamin tan trong nước và Vitamin tan trong chất béo. vitanmin tan trong nước bao gồm vitamin nhóm B và C, dễ bị ôxy hóa, nhất là ở nhiệt độ cao. Đối với tôm cá nuôi, chúng có giá trị dinh dưỡng rõ rệt, nhất là Vitamin C giúp giảm sốc và tăng sức đề kháng. Thiếu Vitamin C gây nên bệnh vẹo cột sống ở cá và bệnh chết đen ở tôm. Hầu hết tôm cá đều không có khả năng tổng hợp Vitamin C mà hấp thu chủ yếu từ thức ăn.

Nhóm vitamin tan trong chất béo gồm Vitamin A, D, E, và K, là nhóm Vitamin bền ở nhiệt độ cao. Tôm cá thiếu Vitamin A sẽ thiếu máu, xuất huyết ở mắt, mang, thận và thay đổi màu sắc cơ thể. Thiếu Vitamin D, tôm cá sẽ bị còi cọc. Thiếu vitamin E, cá bị thoái hóa cơ, tỉ lệ chết cao. Thiếu Vitamin K, máu không đông, sinh trưởng giảm.

Trong chế biến, sự gia nhiệt trong quá trình ép viên thức ăn thường phân hủy Vitamin (C, B12). Để hạn chế hao hụt trong chế biến, nên sử dụng loại Vitamin bền nhiệt hoặc ép viên ở nhiệt độ thức ăn không quá cao hoặc có thể pha dung dịch lipid - vitamin và phun áo ngoài bề mặt viên thức ăn sau khi hạ nhiệt.

Axit amin thiết yếu

Axit amin thiết yếu như DL- Methionin, L-lysine được bổ sung vào TĂTS nhằm điều chỉnh và cân đối axit amin thiết yếu (khi sử dụng nguồn protein thực vật) trong công thức thức ăn, giúp tôm cá nuôi sinh trưởng tốt.

>> Trong nuôi thủy sản, thức ăn thường chiếm 50 - 60% tổng chi phí đầu tư. Muốn có được thức ăn tốt để vật nuôi lớn nhanh thì việc hiểu biết về từng thành phần dinh dưỡng sử dụng trong phối chế thức ăn là rất quan trọng và cần thiết.
Theo Tạp chí Thủy sản
 


Quản lý cho ăn trong nuôi tôm thẻ chân trắng

Khác với tôm sú, tôm thẻ chân trắng có nhu cầu đạm (protein) trong thức ăn thấp hơn (khoảng 32-35%). Thực tế khảo sát cho thấy nhiều trường hợp sử dụng thức ăn có hàm lượng protein 40 – 45% (loại thức ăn dành cho nuôi thâm canh tôm sú) thì tôm thẻ có thể đạt tốc độ tăng trưởng cao với thời gian nuôi ngắn hơn (đạt 80 – 100 con/kg sau 2 tháng nuôi. Tuy nhiên việc sử dụng thức ăn này làm cho ao nuôi thường ô nhiễm cao hơn và đòi hỏi người nuôi phải có trình độ quản lý ao nuôi tốt hơn.

Bên cạnh đó, tập quán ăn của tôm thể chân trắng cũng khác biệt nhiều với tôm sú. Tôm chân trắng có thể ăn được liên tục trong ngày,nó có thể bắt được thức ăn lơ lửng và ăn lại phân của chính nó. Sức ăn của tôm chân trắng phụ thuộc vào hàm lượng oxy hòa tan, nhiệt độ…Chính vì thế việc theo dõi, điều chỉnh lượng thức ăn phù hợp hàng ngày rất quan trọng.

CHO ĂN TRONG THÁNG NUÔI ĐẦU

Trong tháng nuôi đầu, người nuôi thường rất khó đánh giá được tỷ lệ sống của tôm và cũng không đánh giá được sức ăn của tôm chân trắng do chúng còn nhỏ. Trên các bảng cho ăn của nhà cung cấp thức ăn thì lượng cho ăn thường khá cao vì chúng được thiết kế trong điều kiện nuôi lý tưởng, thực tế lượng cho ăn nhỏ hơn như thế. Trong nuôi tôm chân trắng, phần lớn những trang trại quản lý thức ăn dư thừa thường rơi vào giai đoạn tháng nuôi đầu vì người nuôi suy nghĩ rằng cho ăn thiếu tôm sẽ chậm lớn và mất sức tăng trưởng, các vấn đề biến động môi trường ao nuôi, tảo lam, dịch bệnh, khí độc tích tụ cũng sẽ xuất hiện nhanh chóng ngay sau một tháng nuôi, thậm chí ngay trong tháng nuôi đầu. Số cữ cho ăn trong ngày nên chia ra 4 – 5 cữ/ngày để giúp tôm làm quen dần với môi trường nuôi mới (trong trại giống cho ăn 08 cữ/ngày cách nhau 03 giờ). Bảng bên dưới hướng dẫn chi tiết các cho ăn trong tháng nuôi đầu, áp dụng cho 100.000 con tôm.

Bảng cho ăn trong tháng nuôi đầu – áp dụng cho 100.000 con

2014-01-22.jpg

2014-01-23.jpg


CHO ĂN TRONG CÁC THÁNG KẾ TIẾP

Trong các tháng nuôi kế tiếp, việc cho ăn sẽ được thực hiện bằng cách tính toán lượng thức ăn trong ngày dựa vào tổng trọng lượng đàn tôm. Để có thể ước lượng tổng trọng lượng đàn tôm, người nuôi cần tiến hành chài, đánh giá trọng lượng trung bình của một con tôm, ước lượng tỷ lệ sống và tính được trọng lượng bình quân của đàn tôm đang có. Từ tháng thứ 2 trở đi, có thể cho ăn 03 – 04 cữ/ngày và không cho ăn vào ban đêm nếu như hệ thống cung cấp oxy không được đáp ứng đầy đủ. Bảng cho ăn các tháng kế tiếp như bên dưới

Trong các tháng nuôi kế tiếp, việc cho ăn sẽ được thực hiện bằng cách tính toán lượng thức ăn trong ngày dựa vào tổng trọng lượng đàn tôm. Để có thể ước lượng tổng trọng lượng đàn tôm, người nuôi cần tiến hành chài, đánh giá trọng lượng trung bình của một con tôm, ước lượng tỷ lệ sống và tính được trọng lượng bình quân của đàn tôm đang có. Từ tháng thứ 2 trở đi, có thể cho ăn 03 – 04 cữ/ngày và không cho ăn vào ban đêm nếu như hệ thống cung cấp oxy không được đáp ứng đầy đủ. Bảng cho ăn các tháng kế tiếp như bên dưới

2014-01-24.jpg


Thí dụ: Ao tôm thả 300.000 giống, ở ngày nuôi thứ 50 tiến hành chài 05 chài để kiểm tra, giả sử tổng số tôm của 05 chài là 578 con với tổng trọng lượng 3,9 kg. Như vậy,...xem thêm tại phương nam seafood
 


Back
Top