Củ riềng với bệnh tiêu hóa
Củ riềng có vị cay, mùi thơm, tính ấm, vào 2 kinh tỳ vị, có tác dụng ôn trung, tán hàn, giảm đau, tiêu thực. Quả riềng có vị cay, tính ấm, có tác dụng làm ấm bụng, chống lạnh, giảm đau, cầm nôn, ợ hơi. Riềng rất tốt cho kích thích tiêu hóa, ăn ngon cơm, điều trị bụng đầy hơi (trường bụng), rối loạn tiêu hóa, nôn mửa, đi ỉa lỏng, đau dạ dày. Riềng cond điều trị bệnh sốt rét, sốt cảm. Cũng có thể thái củ riềng mỏng ngậm, nhai điều trị đau nhức răng.
Riềng - Alpinia officinarum
Ảnh theo itmonline.org
Thông tin chung
Tên thường gọi: Riềng
Tên khác: Riềng thuốc Cao lương khương, Tiểu lương khương, Phong khương, La gan la, Kim sương
Tên tiếng Anh: Galingale
Tiếng nước khác: Java galangal, Sicomese garalgal (Anh), vrai galanga; Galanga official, Petit galangal (Pháp)…
Tên khoa học: Alpinia officinarum Hance
Thuộc họ Gừng - Zingiberaceae.
Mô tả
Riềng là loại cây thảo cao 1-1,5m, thân rễ hình trụ dài mọc bò ngang, đường kính khoảng 2 cm, màu đỏ nâu, phủ nhiều vảy, chia thành những đốt không đều. Lá riềng không có cuống, mọc so le thành hai dãy, hình mác hẹp, dài 25-40 cm, rộng 2-3 cm, gốc thuôn đầu nhọn, hai mặt nhẵn, mặt trên sẫm bóng, mặt dưới nhạt; bẹ lá dạng vảy, có khía, lưỡi bẹ dạng vảy nhọn.
Cụm hoa mọc ở ngọn thành chủy thẳng, có lông mềm, dài khoảng 10 cm, lá bắc nhỏ. Hoa mọc sít nhau, dài hình ống, hơi loe ở đầu có lông, chia 3 răng ngắn, tràng có ống ngắn, có lông ở cả hai mặt, có 3 thùy tù, lõm, thùy lưng lớn hơn, bao phấn hình chữ nhật, nhẵn, nhị lép hình dùi ngắn và tù. Cánh môi to màu trắng có vân đỏ, bầu có lông.
Quả hình cầu, có lông.
Mùa hoa quả tháng 5-9. Thu hoạch tháng 9-10, củ riềng thu hoạch quanh năm.
Kỹ thuật trồng
Riềng được trồng nhiều trong nhân dân, chịu đất khô ráo, nóng, có độ ẩm cao. Chậm phát triển về mùa đông, phát triển tốt dưới tán cây chuối trong vườn nhà.
Nhân giống riềng bằng củ ra mầm, mùa xuân trồng riềng rất tốt, mỗi một gốc cách nhau 40-50 cm.
Riềng dùng củ tươi hoặc thái mỏng phơi hay sấy khô.
Thành phần hóa học
Thân rễ riềng chứa nhiều diarylheptanoid, ngoài ra còn chứa tinh dầu và có flavonoid. Tinh dầu riềng sệt loãng, màu xanh vàng, có mùi thơm long não, trong dầu có xineola và methylxinnamat, chất cay của riềng là galangola.
Tác dụng dược lý
Riềng có tác dụng gây giãn mạch trên mạch cô lập và chống co thắt cơ trơn ruột gây bởi histamin và acetylcholin trên động vật thí nghiệm.
Diaryheptanoid trong củ riềng có tác dụng ức chế sự sinh tổng hợp prostaglandin.
Với các bệnh nhân bị viêm, loét miệng nối (thường là sau phẫu thuật ống tiêu hóa một thời gian), catecholamin trong nước tiểu tăng lên trong các trường hợp thể nhiệt và giảm xuống trong các trường hợp thể hàn. Khi dùng bài thuốc có riềng và 4 vị dược liệu khác thì có sự đảo ngược lại là catecholamin nước tiểu giảm trong loét miệng nối thể nhiệt và tăng lên trong thể hàn.
Tính vị, công năng
Củ riềng có vị cay, mùi thơm, tính ấm, vào 2 kinh tỳ vị, có tác dụng ôn trung, tán hàn, giảm đau, tiêu thực. Quả riềng có vị cay, tính ấm, có tác dụng làm ấm bụng, chống lạnh, giảm đau, cầm nôn, ợ hơi.
Tác dụng của củ riềng
Riềng rất tốt cho kích thích tiêu hóa, ăn ngon cơm, điều trị bụng đầy hơi (trường bụng), rối loạn tiêu hóa, nôn mửa, đi ỉa lỏng, đau dạ dày. Riềng cond điều trị bệnh sốt rét, sốt cảm. Cũng có thể thái củ riềng mỏng ngậm, nhai điều trị đau nhức răng.
Ngày uống 3-6 g, thuốc sắc, bột hoặc ngâm rượu 45o làm rượu thuốc uống khai vị (không uống trong trường hợp bị đau dạ dày, gan, huyết áp cao, xơ vữa động mạch, suy tim…).
Củ riềng chữa các bệnh đường tiêu hóa
Chữa đau bụng nôn mửa
Củ riềng 8 g, táo 1 quả. Sắc 300 ml nước còn lại 100 ml, uống 2-3 lần trong ngày.
Chữa tiêu chảy
- Củ riềng, củ gấu, gừng khô, sa nhân, trần bì: lượng bằng nhau, tán nhỏ. Ngày uống 3 lần, mỗi lần 6 g.
- Củ riềng 200 g, quế 120 g, vỏ vối 80 g. Tán nhỏ, lấy 12 g, sắc uống.
- Củ riềng 20 g, nụ sim 80 g, vỏ sộp cây ổi 60 g. Dùng dưới dạng bột hoặc viên, ngày uống 3 lần, mỗi lần 5 g.
Chữa phong thấp, cước khí, buồn nôn
Củ riềng, vỏ quýt, hạt tía tô, lượng bằng nhau, tán nhỏ trộn với mật ong, mỗi lần uống 5 g, ngày uống 2 lần.
Chữa sốt rét, cảm sốt, ăn uống kém
- Củ riềng tẩm dầu vừng sao 40 g, can khương nướng 40 g, 2 vị tán nhỏ trộn với mật lợn thành viên nhỏ như hạt ngô, ngày uống 15-20 viên.
- Củ riềng tán nhỏ, ngày uống 6-10 g.
- Củ riềng 1000 g, thường sơn 3000 g, gừng khô, quế khô, thảo quả, mỗi vị 2000 g. Tất cả tán nhỏ, làm thành viên bằng hạt ngô, mỗi ngày uống 20 iên trước bữa ăn.
Chữa đau dạ dày
Củ riềng ngâm rửa với rượu 7 lần, sấy khô, tán nhỏ; hương phụ rửa giấm 7 lần, sầy khô, tán nhỏ; 2 vị trộn đều, làm thành viên, mỗi lần uống 5 g khi có cơn đau dạ dày.
Riềng và các bệnh khác
Chữa đau tức nhói ở ngực tim, toát mồ hôi chân tay, lạnh, khó thở
Củ riềng, ô dược (phải ngâm rửa rượu 1 đêm), hồi hương, thanh bì, các bị bằng nhau. Sao vàng, tán nhỏ, mỗi lần uống 8 g, ngày uống 2 lần.
Chữa hắc lào
Củ riềng giã tán nhỏ 100 g, ngâm với cồn 90o (200 ml) càng lâu càng tốt. Ngày bôi 3-4 lần. Hoặc củ riềng giã tán nhỏ, trộn với nhựa chuối, rắc ít vôi trộn thành thuốc để bôi.
Củ riềng tốt như vậy nhưng tác dụng chữa nhiều bệnh của củ riềng, đặc biệt là bệnh về đường tiêu hóa vẫn còn rất ít được biết đến trong nhân dân. Thường chỉ biết thịt chó là phải có củ riềng, thực ra củ riềng và thịt chó có 1 cơ chế rất tốt đối với những người thường bị tuột men.
Theo BS. Trang Xuân Chi
Cây thuốc quý - Tạp chí về dược liệu và sức khỏe cộng đồng