1) Nuôi cá lóc trên đất vườn
Chuyende_2011_7.6
Anh Trần Khương trong hồ nuôi cá lóc trải bạt.
Ở tổ 13 thôn 3 xã Bình Triều (Thăng Bình), hai năm gần đây đã xuất hiện một nông dân nuôi cá lóc trải bạt trên đất vườn cho thu nhập cao: lãi hơn 200 triệu đồng/năm. Đó là anh Trần Khương, 36 tuổi, người biết khắc phục khó khăn của vùng cát thường khô hạn về mùa hè và ngập úng vào mùa mưa để làm giàu.
Sau nhiều năm tìm việc làm ở các tỉnh phía nam, Trần Khương học hỏi được kinh nghiệm nuôi cá lóc của nông dân và rút ra một qui trình nuôi cá cho chính mình. Đó là sử dụng 500m2 đất vườn đưa vào nuôi cá lóc bằng cách dùng tấm bạt trải lên để giữ nước, dùng bao đất chất lên thành ao và thả cá lóc. Để giảm tỉ lệ hao hụt trong quá trình nuôi, anh phải thay nước thường xuyên 2 ngày một lần, không để nguồn nước bẩn dễ gây bệnh cho cá. Thức ăn cho cá được anh mua từ bến cá Hội An và biển Bình Minh (Thăng Bình), một “nguồn” dồi dào, giá thành lại rẻ. Riêng cá giống, anh mua ở các tỉnh miền Tây Nam Bộ và luôn chủ động nguồn cá giống để nuôi gối đầu cho vụ sau.
Sau 4 tháng nuôi thì cho thu hoạch vụ đầu tiên và đã có lãi, anh Khương mạnh dạn mở rộng diện tích ao nuôi lên thêm 500m2 nữa với 5 hồ nuôi cá lóc trải bạt, đồng thời trong quá trình nuôi định kỳ phân loại cỡ cá để tránh hao hụt. Mỗi năm, anh xuất bán cá 3 đợt, mỗi đợt từ 3 - 4 tấn cá, thu về trên 400 triệu đồng. Sau khi trừ mọi chi phí, anh đã có lãi trên 200 triệu đồng/năm.
Ngoài việc nuôi cá lóc, anh Khương còn dành riêng một bể nuôi cá trê lai để tận dụng nguồn thức ăn dư thừa từ cá lóc và cũng thu được nguồn lãi đáng kể.
Thị trường tiêu thụ cá lóc của anh Khương cũng ổn định, đó là nhờ anh bán cho bạn hàng ở Đà Nẵng; mỗi khi có cá xuất bán anh chỉ thông tin bằng điện thoại là có xe tải đến chở cá. Cá bán được giá nhất là từ tháng chạp đến tháng 5 âm lịch. Vào thời điểm này, cá nuôi không sợ bị mưa lụt trôi và nguồn cá ngoài thị trường lại khan hiếm nên lãi nhiều.
Nhờ đó, gia đình anh Khương đã thoát nghèo, trở thành hộ khá giàu. Anh cũng thường chia sẻ kinh nghiệm với những nông dân đến tìm hiểu kỹ thuật nuôi cá để giúp bà con vươn lên thoát nghèo. Có ít nhất 5 hộ đến tham khảo kỹ thuật, phương pháp nuôi cá lóc trải bạt từ anh Khương. Với hy vọng mô hình nuôi cá nước ngọt trải bạt sẽ được nhân rộng trên địa bàn huyện Thăng Bình, anh tâm sự: “Mô hình này có nhiều thuận lợi như diện tích nhỏ, tận dụng được lao động dư thừa, đầu tư ao nuôi đơn giản, nguồn nước nuôi ít, thời gian nuôi ngắn và ở những diện tích đất cát đều có thể nuôi được”.
2) Nuôi cá lóc trong bể bạt, ít vốn, hiệu quả cao
KTNT - Khoa Thủy sản (Trường Đại học Cần Thơ) vừa sơ kết việc thực hiện dự án nuôi cá lóc trên bể lót bạt tại tỉnh An Giang.
Từ tháng 8/2010 đến nay, khoa đã tổ chức 6 lớp tập huấn cho 180 học viên kỹ thuật sản xuất giống và nuôi cá lóc thương phẩm trong bể bạt ứng dụng vào 34 mô hình tại 5 huyện Phú Tân, An Phú, Tịnh Biên, Tri Tôn, Thoại Sơn và TP. Long Xuyên. Trong đó, hai nông dân ở huyện Tri Tôn và Tịnh Biên đã ứng dụng thành thục kỹ thuật ương giống và sản xuất giống cá lóc.
Tiến sĩ Dương Nhựt Long, Bộ môn Kỹ thuật nuôi cá nước ngọt - Khoa Thủy sản cho biết, qua thực nghiệm, so sánh với 3 điểm nuôi sử dụng thức ăn công nghiệp, 3 điểm nuôi thức ăn tự chế biến và 28 điểm nuôi dùng thức ăn tươi sống thấy, dùng thức ăn tự chế biến, cá tăng trưởng cao hơn (0,88-6,61g/ngày) so với cách nuôi dùng 2 loại thức ăn còn lại.
Dùng thức ăn tươi sống đạt năng suất cao nhất là 484kg/bể 15m2, trọng lượng bình quân 700g/con, nhưng dùng thức ăn viên công nghiệp lãi bình quân hơn 2,7 triệu đồng/bể 15m2. Người dân hoàn toàn có thể sử dụng loại thức ăn này để nuôi cá lóc thương phẩm. Riêng với hai nông dân ứng dụng kỹ thuật sản xuất cá giống, cá lóc sinh sản, tỷ lệ cá con sống đạt 58%.
Về mặt hiệu quả, mô hình nuôi cá lóc trong bể bạt vốn đầu tư không lớn. Trong một vụ nuôi 3-4 tháng, tổng chi phí nuôi từ 9,9-12,7 triệu đồng/vụ/bể nuôi 15m2. Năng suất nuôi đạt từ 423 – 484 kg, với giá bán 30.000-31.000đồng/kg, tổng thu đạt hơn 12,6 - 14,5 triệu đồng, trừ chi phí, lợi nhuận đạt 1,7 - 3,6 triệu đồng/vụ.
Ông Nguyễn Thanh Hiệu, cán bộ Khoa Thủy sản, người trực tiếp chuyển giao kỹ thuật mô hình nuôi cá lóc trong bể bạt nhận xét: “Đây là mô hình dễ quản lý nguồn nước, dễ chủ động hơn so với điều kiện kỹ thuật chăm sóc nuôi cá lóc trong ao, vèo hay trong lưới mùng dưới kênh rạch. Cá lóc được thị trường nội địa tiêu thụ mạnh, có thể chế biến nhiều loại sản phẩm đa dạng, phong phú như làm khô, làm mắm. Vì thế tương lai nghề nuôi cá lóc có thể phát triển nhanh hơn. Tuy nhiên, một điều cần lưu ý nông dân khi tham gia mô hình cần sử dụng hệ thống xử lý nước thải. Bà con có thể nhân rộng mô hình này để đạt hiệu quả sản xuất cao nhất”.
3) Nuôi cá lóc công nghiệp trong vèo lưới
Chuyende_2011_7.7
Thu hoạch cá lóc
Đến thăm trang trại của chị Phan Thị Vân ở ấp 3 xã Thạnh Trị huyện Đình Đại, nằm bên dòng Ba Lai hiền hòa vào những ngày cuối tháng 7 đã thật sự thu hút tôi bởi màu xanh của cây lá mà trước đó vài năm là một vùng đất cằn cổi không trồng được gì bởi nước mặn. Lối vào đã rợp bóng mát của hàng cây so đủa mà chị trồng để cải tạo đất và lấy lá để nuôi dê. Nhưng điều làm tôi thật sự chú ý lại là những vèo lưới lớn, nhỏ đủ cở được giăng dưới những ao mà trước đây là nơi nuôi cá lóc công nghiệp. Và khi bắt chuyện tôi mới biết đó là những vèo đang nuôi cá lóc chứ không phải là những vèo ươm cá giống như các trại cá khác.
Nuôi cá lóc công nghiệp trong vèo, một mô hình thật lạ và nó có lợi gì hơn so với trong ao, trong hầm? Nhớ lại 3 năm trước, năm 2003 chị Vân bắt tay vào nghề nuôi thủy sản nước ngọt với nhiều loại như: Rô phi, Điêu hồng, Rô đồng, cá lóc, cá sấu, ba ba… nhưng đối tượng được chị chọn nuôi chủ lực để tập trung đầu tư chính là con cá lóc. Năm 2004, chị Vân bắt tay vào nuôi thử nghiệm cá lóc môi trề có nguồn gốc từ An Giang và Đồng Tháp. Bước đầu gian nan và gặp không ít khó khăn do chưa có kinh nghiệm nên cá hao hụt nhiều và thường hay mắc bịnh. Trầy trật mãi cuối cùng chị cũng gặt hái được thành công. Vụ nuôi đầu tiên, 2 ao cá lóc cho sản lượng hơn 20 tấn trị giá trên 400 triệu đồng, trừ hết chi phí chị lãi được trên 100 triệu đồng.
Thừa thắng xông lên, năm 2005, chị Vân tăng lên 4 ao nuôi với diện tích hơn 10.000m2, với lượng cá lóc giống thả nuôi trên 300 ngàn con. Chị Vân cho biết: nuôi cá lóc công nghiệp không khó lắm, điều quan trọng là yếu tố con giống, nguồn nước, thức ăn và phòng trị bịnh; nếu mua con giống không đồng đều, cá bị xây xát, có lượng cá lóc đồng pha trộn thì sẽ bị hao hụt nhiều hoặc chậm lớn.
Năm 2005, sau 6 tháng nuôi, chị Vân lại trúng đậm, trọng lượng bình quân mỗi con đạt trên 1kg, sản lượng của 4 ao nuôi đạt 57 tấn, giá bán bình quân 18.000đồng/kg, chị đã thu về trên 1 tỉ đồng, lãi 270 trịêu đồng tương đương với thực lãi 1 ha mặt nước nuôi tôm sú thâm canh, nhưng mức độ thiệt hại và rủi ro không đáng kể. Tuy liên tục thắng lợi nhưng chị vẫn băng khoăn về con giống hao hụt, chậm lớn và kích cỡ không đều, bị tư thương ép giá làm chị trăn trở mãi, thôi thúc chị đến tận An giang, Đồng Tháp để học hỏi.
Năm nay 2006, chị quyết định ứng dụng mô hình nuôi cá lóc giống công nghiệp trong vèo lưới, trong ao đất 2000m2 trước đây, chị cho đặt nhiều vèo lưới theo độ tuổi của cá bao gồm vèo ươm, vèo nuôi cá tăng trưởng và vèo nuôi cá thương phẩm. Tuỳ theo độ tuổi của cá mà mật độ mỗi vèo khác nhau. Vèo nuôi cá thương phẩm với mật độ là 50 con/m2. Vèo được xây dựng hình vuông hoặc hình chữ nhựt, đáy vèo đặt cách đáy ao khoảng 5 tấc, độ sâu nước trong vèo phải đạt từ 2,5m trở lên. Chị Vân cho biết: nuôi cá lóc trong vèo có nhiều ưu điểm như nuôi ở mật độ cao để có sản lượng lớn, thức ăn được tập trung, cá không bị cọ sát đáy ao hoặc không chui được xuống bùn nên ít bị xây xát, cá tập trung ăn và ngủ rồi lại ăn, ít nhiễm bịnh nên tỉ lệ hao hụt thấp và nhất là việc xử lý thuốc phòng trị bịnh cho cá thuận lợi và ít tốn kém hơn trong ao đất.
Đặc điểm cá nuôi trong vèo lưới tăng trọng nhanh và kích cỡ đồng đều. Giá trị thương phẩm cao hơn cá thả lan. Đồng thời, bên ngoài vèo lưới thả thêm các loại cá ăn tạp nhằm cải tạo ao, tận dụng thức ăn thừa, đây cũng là nguồn thu không nhỏ.
Tâm sự với chúng tôi chị cho biết toàn bộ lượng cá lóc đang nuôi trong các vèo lưới hơn 117 ngàn con đều là cá giống được chị cho sinh sản và ươm nuôi tại các ao nuôi của chị từ 180 con cá lóc bố mẹ đã được tuyển chọn, nuôi dưỡng cho đẻ.Với những con cá lóc bố mẹ có trọng lượng mỗi con từ 3 đến 4 kg cho đẻ trứng trong các ổ nhân tạo, sau khi cá đẻ, trứng được vớt lên ấp nở rồi ươm lên cá giống. Tuy tỉ lệ ươm cá giống chỉ đạt hơn 5%, nhưng những gì thành công bước đầu cũng đã mở ra triển vọng cho chị và người nuôi trong tỉnh.
Việc thành công nuôi cá lóc trong vèo lưới của chị Vân làm tôi nhớ lại những thử nghiệm của anh Lê văn Nhỏ ở ấp 2 xã Phú Long huyện Bình Đại cũng nuôi cá lóc trong vèo lưới với qui mô nhỏ hơn, mỗi vèo lưới chỉ 30m2 (mật độ 100con/m2), cũng bằng thức ăn cá biển xay. Sau 4 tháng nuôi đạt trọng lượng bình quân 700g/con, thu được 2,5 tấn, trừ chi phí anh Lê văn Nhỏ còn lãi 26 triệu đồng và lượng cá nuôi xen ngoài ao đất. Tương tự chú Nguyễn Văn Long ấp Tân Hưng xã Tân Khánh Trung huyện Chợ Lách, năm 2005 cũng đã tận dụng mương vườn nuôi cá lóc trong vèo lưới cũng đã có lãi với qui mô nhỏ. Điều này, cho thấy đây là mô hình có thể nhân rộng và phát triển qui mô nuôi theo khả năng của từng hộ gia đình.
Vẫn là người đi đầu trong nghề nuôi cá lóc thương phẩm thâm canh ở Bến Tre, chị Vân lại một lần nữa minh chứng cho sự nhạy bén, năng động trong phát triển kinh tế và tinh thần lao động sáng tạo trong sản xuất, chị cho biết, mới đây chị vừa thu hoạch ao cá lóc bông, sản lượng 13 tấn và trong tháng 8 này sẽ thu tiếp một ao cá lóc bông ước sản lượng khoảng 25 tấn và cũng vừa thả nuôi thêm một ao cá lóc bông.
Có thể nói, trong quá trình chuyển dịch kinh tế thủy sản vùng nuớc ngọt ở Bến Tre, nhiều mô hình nuôi thuỷ sản đã đem lại hiệu quả cho người nông dân, trong đó mô hình nuôi cá lóc công nghiệp thâm canh trong vèo lưới của chị Vân đã mở ra cho Tỉnh một tiềm năng mặt nước ở vùng nước ngọt và nhất là hai bên dòng Ba Lai một nghề nuôi không thua gì con tôm sú miệt biển.
Chuyende_2011_7.8
4) Nuôi cá lóc- nghề mới phát
Thật bất ngờ từ cách làm nhỏ lẻ, nghề nuôi cá lóc ở ĐBSCL đang vươn lên thành nguồn lợi mới. Nghề nuôi cá lóc đạt sản lượng tới 40.000 tấn/năm, nhiều hộ nuôi cá đạt trên 14 tấn sản phẩm/năm, chỉ xếp sau cá tra, tôm sú. Hơn thế nữa, thành công trong việc nuôi cá lóc bằng thức ăn chế biến công nghiệp không phụ thuộc vào nguồn cung cá tạp sẽ mở ra hướng đi mới.
Nguồn lợi mới
Cá lóc là loài cá đặc trưng ở nước ta và đang được nông dân nuôi nhiều ở ĐBSCL. Cá lóc thịt ngon, ngọt, được chuộng dùng chế biến thực phẩm trong bữa ăn thường ngày của các gia đình. Trước đây, vào mùa tát đìa cá đồng, cá lóc thu nhiều còn có thể chế biến tạo giá trị gia tăng và bảo quản dùng được lâu như làm mắm, phơi khô, chà bông.
Trên thị trường nội tiêu, cuộc khảo sát tiêu dùng của Khoa Thủy sản, Trường ĐH Cần Thơ cho thấy người tiêu dùng ở các đô thị và nông thôn vùng ĐBSCL khi chọn mua cá cho bữa ăn gia đình thì vẫn ưu tiên hàng đầu là mua cá lóc, sau đó lần lượt tới cá rô đồng, cá biển, cá tra, cá điêu hồng. Bắt mạch nhu cầu, từ khi chủ động tạo được nguồn cá giống nhân tạo và các khâu ương giống, phòng trị một số bệnh cá trong quá trình nuôi, sản lượng cá lóc không ngừng tăng lên.
Từ lâu nghề nuôi cá nước ngọt ở ĐBSCL thịnh hành như nuôi trong ao hay lồng bè. Vào những năm 1960 nghề nuôi cá lóc bông trong lồng bè đã xuất hiện ở Châu Đốc (An Giang) và Hồng Ngự (Đồng Tháp). Từ năm 1990 đến nay, nghề nuôi cá lóc đen ở vùng ảnh hưởng lũ trở nên phổ biến. Cá lóc nuôi tương đối dễ, có thể nuôi ở dạng bán thâm canh, thâm canh với nhiều hình thức đơn giản như nuôi trong ao đất, trong lồng bè, trong mương hay trên ruộng lúa.
Cá lóc đen lớn nhanh, thu hoạch sau 4-5 tháng nuôi nên có thể tăng lên 2 vụ/năm. Cá lóc bông nuôi thu với cỡ cá lớn hơn nên thời gian nuôi kéo dài khoảng 8 tháng. Nhiều hộ dân tham gia nuôi cá, trong đó chiếm phần nhiều là hộ nuôi qui mô nhỏ lẻ sử dụng lao động gia đình để lấy công làm lời, có thêm thu nhập.
Theo so sánh hiệu quả các mô hình, chi phí nuôi cá lóc trong lồng bè là cao nhất (khoảng 2,3 triệu đồng/m3/vụ); kế đến là nuôi ao nổi khoảng 1,9 triệu đồng/m3/vụ và chi phí thấp nhất là nuôi ao đất. Nuôi cá lóc bông đạt năng suất và lợi nhuận cao hơn nuôi cá lóc đen và với mật độ nuôi 40-80 con/m3 cho tỉ suất lợi nhuận cao nhất. Trong 5 tác nhân chính tham gia chuỗi giá trị cá lóc: hộ nuôi cá, chủ vựa, cơ sở chế biến, sạp bán lẻ và người tiêu dùng, hai đối tượng thương lái và người nuôi chiếm lợi nhuận nhiều hơn.
Mở hướng mới
Nghề nuôi cá lóc đang phổ biến ở vùng ĐBSCL. Hồi lúc khởi phát thường dựa vào lợi thế mùa lũ, tận dụng nguồn thức ăn cung cấp chủ yếu từ các loài cá tạp (thường là loài cá trắng có kích cỡ nhỏ). Dần dần nghề nuôi phát triển nhiều nên gây ra không ít lo ngại nuôi cá lóc dẫn tới đe dọa các giống loài thủy sản khác. Giới chuyên môn tính toán rằng, người nuôi muốn thu 1 kg cá lóc cần tiêu tốn tới 4-4,5 kg cá tạp.
Với tổng sản lượng cá lóc nuôi trong vùng 30.000 tấn/năm thì phải sử dụng tới 50.000 tấn cá tạp nước ngọt và 75.000 tấn cá tạp biển, tương ứng với 30% sản lượng khai thác nội địa và chiếm 12% sản lượng khai thác hải sản hằng năm của ĐBSCL. Đó thật sự là vấn đề lớn đáng lo ngại đối với nguồn lợi thủy sản và an ninh thực phẩm cho cộng đồng, nhất là cộng đồng nghèo ở vùng nông thôn.
Ở vùng lũ ĐBSCL có 145 loài cá tự nhiên, 14 loài tôm nước ngọt. Trong đó có 13 loài cá và 3 loài tôm có giá trị kinh tế cao. Tổng sản lượng cá tự nhiên khai thác khoảng 150.000 tấn/năm và biến động theo mùa lũ. Tuy nhiên hiện nay khai thác cá tự nhiên của các nông hộ đã giảm 70-80% so với 10 năm trước.
Cũng vì lý do này, từ năm 2005 Vương quốc Campuchia cấm nuôi loài cá này (ngoại trừ làm thí nghiệm). Nghề nuôi cá lóc muốn phát triển đã thật sự gặp trở ngại, vì phụ thuộc rất nhiều vào nguồn thức ăn từ cá tạp. Trong khi nguồn cá tạp thường có nhiều trong mùa lũ thì mấy năm gần đây trữ lượng tự nhiên suy kiệt. Nhìn sang nghề nuôi cá tra ở ĐBSCL, nông dân dùng thức ăn công nghiệp dạng viên là một vấn đề kinh tế xã hội.
Từ đó cuộc nghiên cứu của Khoa Thủy sản, Trường ĐH Cần Thơ trong việc tập cho cá lóc ăn thức ăn công nghiệp phối chế từ các nguyên liệu thực vật tại địa phương xem như mở ra hướng đi mới. PGS.TS Nguyễn Thị Thanh Hiền, Phó trưởng Khoa Thủy sản – ĐH Cần Thơ, đứng đầu nhóm nghiên cứu cho biết: Mục tiêu trong nghiên cứu phát triển thức ăn chế biến cho cá lóc là nhằm bảo vệ nguồn lợi thủy sản, chủ động nguồn thức ăn cho cá, giảm thiểu tác động môi trường và phát triển nuôi cá thâm canh. Nuôi cá lóc có thể thay thế đến 50% thức ăn chế biến trong khẩu phần mà không ảnh hưởng đến quá trình sinh trưởng; thay thế cá tạp bằng 100% thức ăn chế biến sẽ giảm chi phí thức ăn/kg cá tăng trọng.
Nghiên cứu này mang nhiều ý nghĩa trong việc đáp ứng nhu cầu nghề nuôi cá lóc thâm canh đang phát triển mạnh ở miền Tây.
5) Nuôi cá lóc trong ao đất
Nuôi cá lóc rất đa dạng, có thể trong ao, vèo, bể bạc, bể xi măng hay trong mương vườn, ao đất tùy theo điều kiện của người nuôi.
Dưới đây là kỹ thuật nuôi cá lóc trong ao đất. Diện tích ao sử dụng nuôi khoảng 100 - 2.000m2, ao hình chữ nhật để tiện việc chăm sóc quản lý và thu hoạch. Bờ ao phải vững chắc tránh bị sạt lở và không bị ngập nước vào mùa lũ.
Cá giống chọn đều cỡ, không bị dị tật, bóng mượt, không xây xát. Nên thả nuôi với mật độ vừa phải để dễ quản lý, hạn chế dịch bệnh xảy ra. Nếu không gian chật hẹp, cá sẽ chậm lớn và hao đầu con ảnh hưởng đến chi phí nuôi cũng như hệ số tiêu tốn thức ăn sẽ tăng cao. Mật độ thả nuôi từ 30-100con/m2 (thích hợp 40 - 60 con/m2). Cá lóc là loài cá dữ và ăn tạp.
Hiện nay đã có thức ăn dành cho cá lóc nhằm cung cấp đầy đủ dinh dưỡng cho từng giai đoạn phát triển của cá. Ở giai đoạn cá nhỏ có thể sử dụng sàn ăn để tập cho cá ăn nhằm kiểm soát thức ăn. Chia thức ăn ra nhiều lần, giúp cá ăn nhanh và triệt để hơn. Trong tháng đầu tiên, người chăn nuôi nên cho cá ăn tạp trộn với thức ăn xay nhuyễn. Định khẩu phần ăn phù hợp, tránh lãng phí và ô nhiễm ao nuôi.
Thức ăn thay đổi theo từng giai đoạn phát triển của nó, có thể tham khảo theo bảng sau:
Kích cỡ cá giống (gr/con)
Khẩu phần ăn (%)/trọng lượng cá
Loại thức ăn
<50
3,5 - 4,5
SF300 44%Pr
50 – 100
3,0 – 4,0
SF300 44%Pr
100 – 200
2,5 – 3,0
SF400 41%Pr
200 – 400
2,0 – 2,5
SF400 41%Pr
> 400
1,8 – 2,0
SF400 41%Pr
SF500 38%Pr
Kích cỡ cá giống (gr/con)
Khẩu phần ăn (%)/trọng lượng cá
< 50
3,5 – 4,5
50 – 100
3,0 – 4,0
100 – 200
2,5 – 3,0
200 – 400
2,0 – 2,5
> 400
1,8 – 2,0
Chú ý thay nước ao định kỳ 2 tuần/lần, không để màu nước có nhiều bọt khí và màu xanh đậm. Thường xuyên vệ sinh ao. Thức ăn đủ nhu cầu, hợp lý, không để dư thừa.
Tăng cường sức đề kháng cho vật nuôi định kỳ bằng cách bổ sung Vitamin C và khoáng chất cho cá, giúp cá có đề kháng tốt trong điều kiện môi trường thay đổi và khả năng hạn chế dịch bệnh cao.
Thường xuyên treo giỏ thuốc ở đầu cống cấp nước giúp phòng bệnh cho cá. Không dùng thuốc kháng sinh để phòng bệnh cho cá.
Đến thời điểm thu hoạch, đối với cá lóc đầu vuông từ 3,5 - 4,5 tháng thu hoạch: 0,7- 1kg/con; Cá lóc đầu nhím: 5 - 6 tháng thu hoạch: 0,7 - 1,2kg/con. Người nuôi cá lóc còn phải đặc biệt lưu ý, trước khi thu hoạch cá 2 - 3 ngày ngừng cho cá ăn. Vì cho ăn khi thu hoạch, cá sẽ dễ bị chết./.
(Theo kcmdanang.org.vn)
Chuyende_2011_7.6
Anh Trần Khương trong hồ nuôi cá lóc trải bạt.
Ở tổ 13 thôn 3 xã Bình Triều (Thăng Bình), hai năm gần đây đã xuất hiện một nông dân nuôi cá lóc trải bạt trên đất vườn cho thu nhập cao: lãi hơn 200 triệu đồng/năm. Đó là anh Trần Khương, 36 tuổi, người biết khắc phục khó khăn của vùng cát thường khô hạn về mùa hè và ngập úng vào mùa mưa để làm giàu.
Sau nhiều năm tìm việc làm ở các tỉnh phía nam, Trần Khương học hỏi được kinh nghiệm nuôi cá lóc của nông dân và rút ra một qui trình nuôi cá cho chính mình. Đó là sử dụng 500m2 đất vườn đưa vào nuôi cá lóc bằng cách dùng tấm bạt trải lên để giữ nước, dùng bao đất chất lên thành ao và thả cá lóc. Để giảm tỉ lệ hao hụt trong quá trình nuôi, anh phải thay nước thường xuyên 2 ngày một lần, không để nguồn nước bẩn dễ gây bệnh cho cá. Thức ăn cho cá được anh mua từ bến cá Hội An và biển Bình Minh (Thăng Bình), một “nguồn” dồi dào, giá thành lại rẻ. Riêng cá giống, anh mua ở các tỉnh miền Tây Nam Bộ và luôn chủ động nguồn cá giống để nuôi gối đầu cho vụ sau.
Sau 4 tháng nuôi thì cho thu hoạch vụ đầu tiên và đã có lãi, anh Khương mạnh dạn mở rộng diện tích ao nuôi lên thêm 500m2 nữa với 5 hồ nuôi cá lóc trải bạt, đồng thời trong quá trình nuôi định kỳ phân loại cỡ cá để tránh hao hụt. Mỗi năm, anh xuất bán cá 3 đợt, mỗi đợt từ 3 - 4 tấn cá, thu về trên 400 triệu đồng. Sau khi trừ mọi chi phí, anh đã có lãi trên 200 triệu đồng/năm.
Ngoài việc nuôi cá lóc, anh Khương còn dành riêng một bể nuôi cá trê lai để tận dụng nguồn thức ăn dư thừa từ cá lóc và cũng thu được nguồn lãi đáng kể.
Thị trường tiêu thụ cá lóc của anh Khương cũng ổn định, đó là nhờ anh bán cho bạn hàng ở Đà Nẵng; mỗi khi có cá xuất bán anh chỉ thông tin bằng điện thoại là có xe tải đến chở cá. Cá bán được giá nhất là từ tháng chạp đến tháng 5 âm lịch. Vào thời điểm này, cá nuôi không sợ bị mưa lụt trôi và nguồn cá ngoài thị trường lại khan hiếm nên lãi nhiều.
Nhờ đó, gia đình anh Khương đã thoát nghèo, trở thành hộ khá giàu. Anh cũng thường chia sẻ kinh nghiệm với những nông dân đến tìm hiểu kỹ thuật nuôi cá để giúp bà con vươn lên thoát nghèo. Có ít nhất 5 hộ đến tham khảo kỹ thuật, phương pháp nuôi cá lóc trải bạt từ anh Khương. Với hy vọng mô hình nuôi cá nước ngọt trải bạt sẽ được nhân rộng trên địa bàn huyện Thăng Bình, anh tâm sự: “Mô hình này có nhiều thuận lợi như diện tích nhỏ, tận dụng được lao động dư thừa, đầu tư ao nuôi đơn giản, nguồn nước nuôi ít, thời gian nuôi ngắn và ở những diện tích đất cát đều có thể nuôi được”.
2) Nuôi cá lóc trong bể bạt, ít vốn, hiệu quả cao
KTNT - Khoa Thủy sản (Trường Đại học Cần Thơ) vừa sơ kết việc thực hiện dự án nuôi cá lóc trên bể lót bạt tại tỉnh An Giang.
Từ tháng 8/2010 đến nay, khoa đã tổ chức 6 lớp tập huấn cho 180 học viên kỹ thuật sản xuất giống và nuôi cá lóc thương phẩm trong bể bạt ứng dụng vào 34 mô hình tại 5 huyện Phú Tân, An Phú, Tịnh Biên, Tri Tôn, Thoại Sơn và TP. Long Xuyên. Trong đó, hai nông dân ở huyện Tri Tôn và Tịnh Biên đã ứng dụng thành thục kỹ thuật ương giống và sản xuất giống cá lóc.
Tiến sĩ Dương Nhựt Long, Bộ môn Kỹ thuật nuôi cá nước ngọt - Khoa Thủy sản cho biết, qua thực nghiệm, so sánh với 3 điểm nuôi sử dụng thức ăn công nghiệp, 3 điểm nuôi thức ăn tự chế biến và 28 điểm nuôi dùng thức ăn tươi sống thấy, dùng thức ăn tự chế biến, cá tăng trưởng cao hơn (0,88-6,61g/ngày) so với cách nuôi dùng 2 loại thức ăn còn lại.
Dùng thức ăn tươi sống đạt năng suất cao nhất là 484kg/bể 15m2, trọng lượng bình quân 700g/con, nhưng dùng thức ăn viên công nghiệp lãi bình quân hơn 2,7 triệu đồng/bể 15m2. Người dân hoàn toàn có thể sử dụng loại thức ăn này để nuôi cá lóc thương phẩm. Riêng với hai nông dân ứng dụng kỹ thuật sản xuất cá giống, cá lóc sinh sản, tỷ lệ cá con sống đạt 58%.
Về mặt hiệu quả, mô hình nuôi cá lóc trong bể bạt vốn đầu tư không lớn. Trong một vụ nuôi 3-4 tháng, tổng chi phí nuôi từ 9,9-12,7 triệu đồng/vụ/bể nuôi 15m2. Năng suất nuôi đạt từ 423 – 484 kg, với giá bán 30.000-31.000đồng/kg, tổng thu đạt hơn 12,6 - 14,5 triệu đồng, trừ chi phí, lợi nhuận đạt 1,7 - 3,6 triệu đồng/vụ.
Ông Nguyễn Thanh Hiệu, cán bộ Khoa Thủy sản, người trực tiếp chuyển giao kỹ thuật mô hình nuôi cá lóc trong bể bạt nhận xét: “Đây là mô hình dễ quản lý nguồn nước, dễ chủ động hơn so với điều kiện kỹ thuật chăm sóc nuôi cá lóc trong ao, vèo hay trong lưới mùng dưới kênh rạch. Cá lóc được thị trường nội địa tiêu thụ mạnh, có thể chế biến nhiều loại sản phẩm đa dạng, phong phú như làm khô, làm mắm. Vì thế tương lai nghề nuôi cá lóc có thể phát triển nhanh hơn. Tuy nhiên, một điều cần lưu ý nông dân khi tham gia mô hình cần sử dụng hệ thống xử lý nước thải. Bà con có thể nhân rộng mô hình này để đạt hiệu quả sản xuất cao nhất”.
3) Nuôi cá lóc công nghiệp trong vèo lưới
Chuyende_2011_7.7
Thu hoạch cá lóc
Đến thăm trang trại của chị Phan Thị Vân ở ấp 3 xã Thạnh Trị huyện Đình Đại, nằm bên dòng Ba Lai hiền hòa vào những ngày cuối tháng 7 đã thật sự thu hút tôi bởi màu xanh của cây lá mà trước đó vài năm là một vùng đất cằn cổi không trồng được gì bởi nước mặn. Lối vào đã rợp bóng mát của hàng cây so đủa mà chị trồng để cải tạo đất và lấy lá để nuôi dê. Nhưng điều làm tôi thật sự chú ý lại là những vèo lưới lớn, nhỏ đủ cở được giăng dưới những ao mà trước đây là nơi nuôi cá lóc công nghiệp. Và khi bắt chuyện tôi mới biết đó là những vèo đang nuôi cá lóc chứ không phải là những vèo ươm cá giống như các trại cá khác.
Nuôi cá lóc công nghiệp trong vèo, một mô hình thật lạ và nó có lợi gì hơn so với trong ao, trong hầm? Nhớ lại 3 năm trước, năm 2003 chị Vân bắt tay vào nghề nuôi thủy sản nước ngọt với nhiều loại như: Rô phi, Điêu hồng, Rô đồng, cá lóc, cá sấu, ba ba… nhưng đối tượng được chị chọn nuôi chủ lực để tập trung đầu tư chính là con cá lóc. Năm 2004, chị Vân bắt tay vào nuôi thử nghiệm cá lóc môi trề có nguồn gốc từ An Giang và Đồng Tháp. Bước đầu gian nan và gặp không ít khó khăn do chưa có kinh nghiệm nên cá hao hụt nhiều và thường hay mắc bịnh. Trầy trật mãi cuối cùng chị cũng gặt hái được thành công. Vụ nuôi đầu tiên, 2 ao cá lóc cho sản lượng hơn 20 tấn trị giá trên 400 triệu đồng, trừ hết chi phí chị lãi được trên 100 triệu đồng.
Thừa thắng xông lên, năm 2005, chị Vân tăng lên 4 ao nuôi với diện tích hơn 10.000m2, với lượng cá lóc giống thả nuôi trên 300 ngàn con. Chị Vân cho biết: nuôi cá lóc công nghiệp không khó lắm, điều quan trọng là yếu tố con giống, nguồn nước, thức ăn và phòng trị bịnh; nếu mua con giống không đồng đều, cá bị xây xát, có lượng cá lóc đồng pha trộn thì sẽ bị hao hụt nhiều hoặc chậm lớn.
Năm 2005, sau 6 tháng nuôi, chị Vân lại trúng đậm, trọng lượng bình quân mỗi con đạt trên 1kg, sản lượng của 4 ao nuôi đạt 57 tấn, giá bán bình quân 18.000đồng/kg, chị đã thu về trên 1 tỉ đồng, lãi 270 trịêu đồng tương đương với thực lãi 1 ha mặt nước nuôi tôm sú thâm canh, nhưng mức độ thiệt hại và rủi ro không đáng kể. Tuy liên tục thắng lợi nhưng chị vẫn băng khoăn về con giống hao hụt, chậm lớn và kích cỡ không đều, bị tư thương ép giá làm chị trăn trở mãi, thôi thúc chị đến tận An giang, Đồng Tháp để học hỏi.
Năm nay 2006, chị quyết định ứng dụng mô hình nuôi cá lóc giống công nghiệp trong vèo lưới, trong ao đất 2000m2 trước đây, chị cho đặt nhiều vèo lưới theo độ tuổi của cá bao gồm vèo ươm, vèo nuôi cá tăng trưởng và vèo nuôi cá thương phẩm. Tuỳ theo độ tuổi của cá mà mật độ mỗi vèo khác nhau. Vèo nuôi cá thương phẩm với mật độ là 50 con/m2. Vèo được xây dựng hình vuông hoặc hình chữ nhựt, đáy vèo đặt cách đáy ao khoảng 5 tấc, độ sâu nước trong vèo phải đạt từ 2,5m trở lên. Chị Vân cho biết: nuôi cá lóc trong vèo có nhiều ưu điểm như nuôi ở mật độ cao để có sản lượng lớn, thức ăn được tập trung, cá không bị cọ sát đáy ao hoặc không chui được xuống bùn nên ít bị xây xát, cá tập trung ăn và ngủ rồi lại ăn, ít nhiễm bịnh nên tỉ lệ hao hụt thấp và nhất là việc xử lý thuốc phòng trị bịnh cho cá thuận lợi và ít tốn kém hơn trong ao đất.
Đặc điểm cá nuôi trong vèo lưới tăng trọng nhanh và kích cỡ đồng đều. Giá trị thương phẩm cao hơn cá thả lan. Đồng thời, bên ngoài vèo lưới thả thêm các loại cá ăn tạp nhằm cải tạo ao, tận dụng thức ăn thừa, đây cũng là nguồn thu không nhỏ.
Tâm sự với chúng tôi chị cho biết toàn bộ lượng cá lóc đang nuôi trong các vèo lưới hơn 117 ngàn con đều là cá giống được chị cho sinh sản và ươm nuôi tại các ao nuôi của chị từ 180 con cá lóc bố mẹ đã được tuyển chọn, nuôi dưỡng cho đẻ.Với những con cá lóc bố mẹ có trọng lượng mỗi con từ 3 đến 4 kg cho đẻ trứng trong các ổ nhân tạo, sau khi cá đẻ, trứng được vớt lên ấp nở rồi ươm lên cá giống. Tuy tỉ lệ ươm cá giống chỉ đạt hơn 5%, nhưng những gì thành công bước đầu cũng đã mở ra triển vọng cho chị và người nuôi trong tỉnh.
Việc thành công nuôi cá lóc trong vèo lưới của chị Vân làm tôi nhớ lại những thử nghiệm của anh Lê văn Nhỏ ở ấp 2 xã Phú Long huyện Bình Đại cũng nuôi cá lóc trong vèo lưới với qui mô nhỏ hơn, mỗi vèo lưới chỉ 30m2 (mật độ 100con/m2), cũng bằng thức ăn cá biển xay. Sau 4 tháng nuôi đạt trọng lượng bình quân 700g/con, thu được 2,5 tấn, trừ chi phí anh Lê văn Nhỏ còn lãi 26 triệu đồng và lượng cá nuôi xen ngoài ao đất. Tương tự chú Nguyễn Văn Long ấp Tân Hưng xã Tân Khánh Trung huyện Chợ Lách, năm 2005 cũng đã tận dụng mương vườn nuôi cá lóc trong vèo lưới cũng đã có lãi với qui mô nhỏ. Điều này, cho thấy đây là mô hình có thể nhân rộng và phát triển qui mô nuôi theo khả năng của từng hộ gia đình.
Vẫn là người đi đầu trong nghề nuôi cá lóc thương phẩm thâm canh ở Bến Tre, chị Vân lại một lần nữa minh chứng cho sự nhạy bén, năng động trong phát triển kinh tế và tinh thần lao động sáng tạo trong sản xuất, chị cho biết, mới đây chị vừa thu hoạch ao cá lóc bông, sản lượng 13 tấn và trong tháng 8 này sẽ thu tiếp một ao cá lóc bông ước sản lượng khoảng 25 tấn và cũng vừa thả nuôi thêm một ao cá lóc bông.
Có thể nói, trong quá trình chuyển dịch kinh tế thủy sản vùng nuớc ngọt ở Bến Tre, nhiều mô hình nuôi thuỷ sản đã đem lại hiệu quả cho người nông dân, trong đó mô hình nuôi cá lóc công nghiệp thâm canh trong vèo lưới của chị Vân đã mở ra cho Tỉnh một tiềm năng mặt nước ở vùng nước ngọt và nhất là hai bên dòng Ba Lai một nghề nuôi không thua gì con tôm sú miệt biển.
Chuyende_2011_7.8
4) Nuôi cá lóc- nghề mới phát
Thật bất ngờ từ cách làm nhỏ lẻ, nghề nuôi cá lóc ở ĐBSCL đang vươn lên thành nguồn lợi mới. Nghề nuôi cá lóc đạt sản lượng tới 40.000 tấn/năm, nhiều hộ nuôi cá đạt trên 14 tấn sản phẩm/năm, chỉ xếp sau cá tra, tôm sú. Hơn thế nữa, thành công trong việc nuôi cá lóc bằng thức ăn chế biến công nghiệp không phụ thuộc vào nguồn cung cá tạp sẽ mở ra hướng đi mới.
Nguồn lợi mới
Cá lóc là loài cá đặc trưng ở nước ta và đang được nông dân nuôi nhiều ở ĐBSCL. Cá lóc thịt ngon, ngọt, được chuộng dùng chế biến thực phẩm trong bữa ăn thường ngày của các gia đình. Trước đây, vào mùa tát đìa cá đồng, cá lóc thu nhiều còn có thể chế biến tạo giá trị gia tăng và bảo quản dùng được lâu như làm mắm, phơi khô, chà bông.
Trên thị trường nội tiêu, cuộc khảo sát tiêu dùng của Khoa Thủy sản, Trường ĐH Cần Thơ cho thấy người tiêu dùng ở các đô thị và nông thôn vùng ĐBSCL khi chọn mua cá cho bữa ăn gia đình thì vẫn ưu tiên hàng đầu là mua cá lóc, sau đó lần lượt tới cá rô đồng, cá biển, cá tra, cá điêu hồng. Bắt mạch nhu cầu, từ khi chủ động tạo được nguồn cá giống nhân tạo và các khâu ương giống, phòng trị một số bệnh cá trong quá trình nuôi, sản lượng cá lóc không ngừng tăng lên.
Từ lâu nghề nuôi cá nước ngọt ở ĐBSCL thịnh hành như nuôi trong ao hay lồng bè. Vào những năm 1960 nghề nuôi cá lóc bông trong lồng bè đã xuất hiện ở Châu Đốc (An Giang) và Hồng Ngự (Đồng Tháp). Từ năm 1990 đến nay, nghề nuôi cá lóc đen ở vùng ảnh hưởng lũ trở nên phổ biến. Cá lóc nuôi tương đối dễ, có thể nuôi ở dạng bán thâm canh, thâm canh với nhiều hình thức đơn giản như nuôi trong ao đất, trong lồng bè, trong mương hay trên ruộng lúa.
Cá lóc đen lớn nhanh, thu hoạch sau 4-5 tháng nuôi nên có thể tăng lên 2 vụ/năm. Cá lóc bông nuôi thu với cỡ cá lớn hơn nên thời gian nuôi kéo dài khoảng 8 tháng. Nhiều hộ dân tham gia nuôi cá, trong đó chiếm phần nhiều là hộ nuôi qui mô nhỏ lẻ sử dụng lao động gia đình để lấy công làm lời, có thêm thu nhập.
Theo so sánh hiệu quả các mô hình, chi phí nuôi cá lóc trong lồng bè là cao nhất (khoảng 2,3 triệu đồng/m3/vụ); kế đến là nuôi ao nổi khoảng 1,9 triệu đồng/m3/vụ và chi phí thấp nhất là nuôi ao đất. Nuôi cá lóc bông đạt năng suất và lợi nhuận cao hơn nuôi cá lóc đen và với mật độ nuôi 40-80 con/m3 cho tỉ suất lợi nhuận cao nhất. Trong 5 tác nhân chính tham gia chuỗi giá trị cá lóc: hộ nuôi cá, chủ vựa, cơ sở chế biến, sạp bán lẻ và người tiêu dùng, hai đối tượng thương lái và người nuôi chiếm lợi nhuận nhiều hơn.
Mở hướng mới
Nghề nuôi cá lóc đang phổ biến ở vùng ĐBSCL. Hồi lúc khởi phát thường dựa vào lợi thế mùa lũ, tận dụng nguồn thức ăn cung cấp chủ yếu từ các loài cá tạp (thường là loài cá trắng có kích cỡ nhỏ). Dần dần nghề nuôi phát triển nhiều nên gây ra không ít lo ngại nuôi cá lóc dẫn tới đe dọa các giống loài thủy sản khác. Giới chuyên môn tính toán rằng, người nuôi muốn thu 1 kg cá lóc cần tiêu tốn tới 4-4,5 kg cá tạp.
Với tổng sản lượng cá lóc nuôi trong vùng 30.000 tấn/năm thì phải sử dụng tới 50.000 tấn cá tạp nước ngọt và 75.000 tấn cá tạp biển, tương ứng với 30% sản lượng khai thác nội địa và chiếm 12% sản lượng khai thác hải sản hằng năm của ĐBSCL. Đó thật sự là vấn đề lớn đáng lo ngại đối với nguồn lợi thủy sản và an ninh thực phẩm cho cộng đồng, nhất là cộng đồng nghèo ở vùng nông thôn.
Ở vùng lũ ĐBSCL có 145 loài cá tự nhiên, 14 loài tôm nước ngọt. Trong đó có 13 loài cá và 3 loài tôm có giá trị kinh tế cao. Tổng sản lượng cá tự nhiên khai thác khoảng 150.000 tấn/năm và biến động theo mùa lũ. Tuy nhiên hiện nay khai thác cá tự nhiên của các nông hộ đã giảm 70-80% so với 10 năm trước.
Cũng vì lý do này, từ năm 2005 Vương quốc Campuchia cấm nuôi loài cá này (ngoại trừ làm thí nghiệm). Nghề nuôi cá lóc muốn phát triển đã thật sự gặp trở ngại, vì phụ thuộc rất nhiều vào nguồn thức ăn từ cá tạp. Trong khi nguồn cá tạp thường có nhiều trong mùa lũ thì mấy năm gần đây trữ lượng tự nhiên suy kiệt. Nhìn sang nghề nuôi cá tra ở ĐBSCL, nông dân dùng thức ăn công nghiệp dạng viên là một vấn đề kinh tế xã hội.
Từ đó cuộc nghiên cứu của Khoa Thủy sản, Trường ĐH Cần Thơ trong việc tập cho cá lóc ăn thức ăn công nghiệp phối chế từ các nguyên liệu thực vật tại địa phương xem như mở ra hướng đi mới. PGS.TS Nguyễn Thị Thanh Hiền, Phó trưởng Khoa Thủy sản – ĐH Cần Thơ, đứng đầu nhóm nghiên cứu cho biết: Mục tiêu trong nghiên cứu phát triển thức ăn chế biến cho cá lóc là nhằm bảo vệ nguồn lợi thủy sản, chủ động nguồn thức ăn cho cá, giảm thiểu tác động môi trường và phát triển nuôi cá thâm canh. Nuôi cá lóc có thể thay thế đến 50% thức ăn chế biến trong khẩu phần mà không ảnh hưởng đến quá trình sinh trưởng; thay thế cá tạp bằng 100% thức ăn chế biến sẽ giảm chi phí thức ăn/kg cá tăng trọng.
Nghiên cứu này mang nhiều ý nghĩa trong việc đáp ứng nhu cầu nghề nuôi cá lóc thâm canh đang phát triển mạnh ở miền Tây.
5) Nuôi cá lóc trong ao đất
Nuôi cá lóc rất đa dạng, có thể trong ao, vèo, bể bạc, bể xi măng hay trong mương vườn, ao đất tùy theo điều kiện của người nuôi.
Dưới đây là kỹ thuật nuôi cá lóc trong ao đất. Diện tích ao sử dụng nuôi khoảng 100 - 2.000m2, ao hình chữ nhật để tiện việc chăm sóc quản lý và thu hoạch. Bờ ao phải vững chắc tránh bị sạt lở và không bị ngập nước vào mùa lũ.
Cá giống chọn đều cỡ, không bị dị tật, bóng mượt, không xây xát. Nên thả nuôi với mật độ vừa phải để dễ quản lý, hạn chế dịch bệnh xảy ra. Nếu không gian chật hẹp, cá sẽ chậm lớn và hao đầu con ảnh hưởng đến chi phí nuôi cũng như hệ số tiêu tốn thức ăn sẽ tăng cao. Mật độ thả nuôi từ 30-100con/m2 (thích hợp 40 - 60 con/m2). Cá lóc là loài cá dữ và ăn tạp.
Hiện nay đã có thức ăn dành cho cá lóc nhằm cung cấp đầy đủ dinh dưỡng cho từng giai đoạn phát triển của cá. Ở giai đoạn cá nhỏ có thể sử dụng sàn ăn để tập cho cá ăn nhằm kiểm soát thức ăn. Chia thức ăn ra nhiều lần, giúp cá ăn nhanh và triệt để hơn. Trong tháng đầu tiên, người chăn nuôi nên cho cá ăn tạp trộn với thức ăn xay nhuyễn. Định khẩu phần ăn phù hợp, tránh lãng phí và ô nhiễm ao nuôi.
Thức ăn thay đổi theo từng giai đoạn phát triển của nó, có thể tham khảo theo bảng sau:
Kích cỡ cá giống (gr/con)
Khẩu phần ăn (%)/trọng lượng cá
Loại thức ăn
<50
3,5 - 4,5
SF300 44%Pr
50 – 100
3,0 – 4,0
SF300 44%Pr
100 – 200
2,5 – 3,0
SF400 41%Pr
200 – 400
2,0 – 2,5
SF400 41%Pr
> 400
1,8 – 2,0
SF400 41%Pr
SF500 38%Pr
Kích cỡ cá giống (gr/con)
Khẩu phần ăn (%)/trọng lượng cá
< 50
3,5 – 4,5
50 – 100
3,0 – 4,0
100 – 200
2,5 – 3,0
200 – 400
2,0 – 2,5
> 400
1,8 – 2,0
Chú ý thay nước ao định kỳ 2 tuần/lần, không để màu nước có nhiều bọt khí và màu xanh đậm. Thường xuyên vệ sinh ao. Thức ăn đủ nhu cầu, hợp lý, không để dư thừa.
Tăng cường sức đề kháng cho vật nuôi định kỳ bằng cách bổ sung Vitamin C và khoáng chất cho cá, giúp cá có đề kháng tốt trong điều kiện môi trường thay đổi và khả năng hạn chế dịch bệnh cao.
Thường xuyên treo giỏ thuốc ở đầu cống cấp nước giúp phòng bệnh cho cá. Không dùng thuốc kháng sinh để phòng bệnh cho cá.
Đến thời điểm thu hoạch, đối với cá lóc đầu vuông từ 3,5 - 4,5 tháng thu hoạch: 0,7- 1kg/con; Cá lóc đầu nhím: 5 - 6 tháng thu hoạch: 0,7 - 1,2kg/con. Người nuôi cá lóc còn phải đặc biệt lưu ý, trước khi thu hoạch cá 2 - 3 ngày ngừng cho cá ăn. Vì cho ăn khi thu hoạch, cá sẽ dễ bị chết./.
(Theo kcmdanang.org.vn)