Giải mã sự thành công của Israel và người Do Thái

  • Thread starter 4tthanh
  • Ngày gửi
4

4tthanh

Guest
329295_US-Jews.jpg

Thành công của người Do Thái nhiều người đã biết, đã nghe từ lâu và có thể kể cả ngày, cả tháng cũng không hết. Là người đã tìm hiểu câu chuyện này cả chục năm nay, càng đi sâu tìm hiểu về những thành công của Israel và người Do Thái, tôi càng thấy phức tạp nhưng cũng hết sức thú vị. Chuyến đi Israel lần này, ngoài các công việc thường lệ, rất nhiều cuộc gặp gỡ, trao đổi, thảo luận với nhiều người, nhiều giới, nhiều nơi khác nhau giúp tôi kiểm chứng, củng cố thêm các nhận định trước đây của mình; biết thêm nhiều vấn đề mới; đồng thời cũng xóa bỏ một số các định kiến một chiều, phiến diện.

Có rất nhiều câu hỏi đeo đẳng trong suốt quá trình tìm hiểu để có câu trả lời thấu đáo, đại loại như:

1. Tại sao chỉ chiếm một phần nhỏ của dân số thế giới, nhưng người Do Thái lại có sự thông tuệ vượt thời gian, hơn hẳn các dân tộc khác trên thế giới? Nếu tính theo chỉ số IQ, chỉ số trung bình của người Do Thái là 110 so với chỉ số trung bình 100 của thế giới. Tuy mức chênh lệch IQ chỉ là 10, nhưng tỷ lệ thiên tài trong nhóm những người có IQ 110 cao hơn nhóm có chỉ số IQ 100 tới 120-150 lần!

2. Phải chăng người Do Thái có “gien” thông minh hơn người và “gien” này được lưu giữ và truyền từ đời này qua đời khác?

Câu chuyện này đã được nhiều nhà khoa học âm thầm nghiên cứu để tìm câu trả lời thấu đáo. Tuy nhiên, người Do Thái lại “bác bỏ” điều nay, cho rằng sở dĩ người Do Thái thành công là do điều kiện, hoàn cảnh bắt buộc họ phải nỗ lực, sáng tạo và vươn lên không ngừng để thích nghi với hoàn cảnh. Vậy thực, hư câu chuyện này ra sao?

3. Nếu như có “gien” Do Thái như vậy thì “gien” này được “lưu giữ” và phát triển ra sao từ thời “Cụ Tổ” của người Do Thái đến nay và trong hoàn cảnh họ bị ly tán, tha phương cầu thực?

Người Do Thái hiện nay đều coi Thủy tổ của mình là ông Abraham (và cũng là của người Hồi giáo – Người Hồi giáo gọi là Ibrahim) ra đời cách đây khoảng 4000 năm, và Nhà Tiên tri Moses, ra đời cách đây khoảng 3600 năm. Ông Mosses đã dẫn dắt các nô lệ người Do Thái chạy trốn khỏi Ai Cập và đến khu vực Bắc Israel hiện nay, thống nhất 12 bộ lạc khác để lập ra nhà nước Do Thái. Hiện nay Israel là quốc gia Do Thái duy nhất trên thế giới, người dân đa phần là người Do Thái và quốc đạo là Đạo Do Thái. Để dễ hình dung, nếu có một nước khác có đặc trưng tương tự như Israel, chẳng hạn Trung Quốc, thì đặc trưng nước đó sẽ là: Người Trung Quốc, nước Trung Quốc, Đạo Trung Quốc. Nhưng trên thực tế ta thấy: người Hán, nước Trung Quốc và Đạo Khổng.

4. Tại khu vực hiện gồm phía Bắc Ai Cập, lãnh thổ Israel, Palestine, Gioóc-đa-ni hiện nay, khu vực phía Nam Syria, và phía Đông Bắc Iraq vốn trước đây là khu vực tranh chấp quyết liệt giữa bộ lạc Do Thái với các bộ lạc khác trong khu vực, cũng như giữa các đế chế lân bang với nhau như Roma, Assyria, Babilon, Ottoman… nhằm kiểm soát khu vực đồng bằng ven biển Israel và khu đồi cao Jerusalem để cho được gần với Đức Chúa trời. Sau sự kiện Ngôi đền thứ nhất của người Do Thái bị đốt năm 586 trước Công Nguyên thì mục tiêu xâm lược là để chiếm miền đất thánh Jerusalem, nơi cả 3 tôn giáo (Do Thái, Thiên chúa, Hồi giáo) đều coi là đất thiêng của mình.

Vậy tại sao trong khi hầu hết các bộ tộc du mục khác bị đồng hóa, hoặc bị tuyệt diệt, nhưng người Do Thái lại “thoát” được nạn này (tuy rằng người Do Thái cũng trải qua nạn diệt chủng Holocaust và một số cuộc truy sát tập thể trong quá khứ)? Vậy họ đã “thoát” bằng cách nào?

5. Tại sao người Do Thái lại có truyền thống hiếu học và tỷ lệ biết chữ rất cao so với những dân du mục cùng thời? Tại sao người Do Thái lại đi tiên phong trong rất nhiều lĩnh vực như khoa học tự nhiên, luật, khoa học chính trị, công nghiệp giải trí…?

Từ hàng ngàn năm trước công nguyên trẻ em Do Thái hầu hết biết đọc biết viết, và khi lưu lạc ở châu Âu, người Do Thái cũng có tỷ lệ biết đọc, biết viết cao hơn người bản địa. Cần nhớ, trước thời kỳ Phục Hưng cả châu Âu chìm đắm trong u muội, tỷ lệ mù chữ lên tới 80-90% dân số. Đến những năm 1930 của thế kỷ trước, người Do Thái gần như độc quyền trong lĩnh vực nghiên cứu năng lượng nguyên tử, thậm chí thời kỳ đó người ta còn gọi ngành khoa học này là “ngành khoa học Do Thái”.

Nhìn rộng hơn, không chỉ người Do Thái quan tâm đến chuyện học hành của con cái, mà người Đông Á, kể cả Việt Nam, cũng vậy và có thể kể ra không ít các tấm gương thành công đáng ngưỡng mộ. Nhiều gia đình sẵn sàng bán nhà, bán cửa để đầu tư chuyện học hành của con cái. Tuy nhiên đạt đến đỉnh cao trí tuệ như Albert Einstein, Karl Marx, Noam Chomski và rất nhiều nhà khoa học đoạt giải Nobel gốc Do Thái lại là một câu chuyện hoàn toàn khác. Tại sao người Do Thái làm được chuyện đó?

6. Trên thế giới đã từng có dân tộc nào bị trục xuất, sống lưu vong trên hai ngàn năm mà vẫn giữ được bản sắc, tiếng nói, chữ viết và tập tục của mình như người Do Thái không?

7. Các giáo sĩ (Rabbi), Hội đồng giáo sĩ và những người Do Thái chính thống là những người có địa vị và tiếng nói quan trọng trong xã hội. Vậy họ có vai trò ra sao trong việc duy trì tập tục, bản sắc và “nòi giống” Do Thái?

8. Tại sao mô hình Kibbudz của người Do Thái lại thành công và có sức sống kỳ diệu ở Israel, trong khi mô hình này lại không thành công hoặc không thể thành công ở các quốc gia khác. Cốt lõi tạo nên thành công của các Kibbudz là gì?

9. Khi người Do Thái được thực hiện giấc mơ “Phục quốc” năm 1948, hàng trăm ngàn người Do Thái từ trên 70 quốc gia khác nhau trên khắp thế giới đổ về mảnh đất Israel, họ đã sát cánh cùng nhau bắt tay xây dựng và bảo vệ đất nước. Tiếp đó, sau các biến động ở Liên Xô và châu Âu trong những năm 1989-1990, 1,5 triệu người Do Thái (tức trên 1/4 dân số) trở về “cố quốc”. Mỹ, Australia, Canada cũng là quốc gia của những người nhập cư, nhưng chưa từng chứng kiến lượng lớn người nhập cư đổ về (tính theo tỷ lệ dân số) trong một thời gian ngắn đến vậy. Tuy đến từ nhiều xứ sở khác nhau, nhưng hầu hết những người Do Thái không bị gặp các rào cản ngôn ngữ và nhanh chóng hội nhập vào xã hội mới. Chuyện này thực hư thế nào và được thực hiện ra sao?

Còn rất nhiều các câu hỏi khác nữa. Vấn đề đặt ra là mô hình Israel và bài học thành công của người Do Thái (tạm bỏ qua một bên các khiếm khuyết và một số “thói hư, tật xấu” của người Do Thái) có thể học được không và áp dụng ở quy mô nào (gia đình, dòng họ, công ty, thiết chế, đất nước…)?

Israel: Cường quốc nông nghiệp giữa sa mạc

Do điều kiện tự nhiên, sa mạc chiếm đến 60% tổng số 20.000 km2 diện tích, nên đất đai canh tác còn lại của Israel rất ít và chủ yếu nằm ở khu vực đồng bằng ven biển. Tuy nhiên, điều này không ngăn cản Israel trở thành nước có nền nông nghiệp phát triển nhất thế giới, chủ yếu nhờ đi tiên phong trong nghiên cứu khoa học và ứng dụng các thành tựu khoa học-công nghệ vào sản xuất nông nghiệp.

Đi thăm các cơ sở nông nghiệp Israel mới thấy trình độ công nghiệp hóa nông nghiệp và khả năng lập kế hoạch sản xuất, dự báo thị trường của Israel đạt đến trình độ rất cao. Có lẽ dùng từ “nông dân” đối với họ là không chính xác, mà là công nhân nông nghiệp. Ngoài ra, đó là sự kết hợp chặt chẽ giữa 4 “Nhà”, gồm: (i) Nhà nước; (ii) Nhà khoa học; (iii) Nhà buôn; và (iv) Nhà nông. “Nhà nông” ở đây cần được hiểu là người bỏ vốn đầu tư, tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào quá trình sản xuất nông nghiệp.

Đất đai ở Israel được nhà nước quản lý rất chặt chẽ. Nhà ở của dân thì xây trên các triền núi đá, khó cải tạo thành đất nông nghiệp, còn đất đồng bằng tuyệt đối sử dụng cho trồng trọt và canh tác. Thậm chí đất hoang mạc, nhưng tương đối bằng phẳng có thể cải tạo thành đất nông nghiệp thì cũng không được làm nhà ở trên đó.

Israel đi tiên phong trên thế giới trong lĩnh vực cải tạo đất hoang mạc, sa mạc thành đất nông nghiệp trù phú. Quy trình như sau (để đơn giản hóa): (i) San bằng đất hoang mạc, sỏi đá; (ii) Phủ lên đó 1 lớp đất dày, ít nhất là 1/2 m; (iii) Trồng các loại cỏ hoặc cây dại không cần tưới nước khoảng từ 3-5 năm, để biến đất chết thành đất màu; (iv) Sau quá trình cải tạo này, đất hoang mạc biến thành đất nông nghiệp và được giao cho các chủ đất (nhà đầu tư) để tiến hành sản xuất.

Về mặt sinh thái, bước vào thế kỷ 21, Israel là nước duy nhất trên thế giới đã mở rộng được diện tích rừng và quỹ đất nông nghiệp.

Tuy là nước nhỏ, có 8 triệu dân, nhưng Israel lại có hệ thống đường dẫn nước tái sử dụng dài nhất thế giới. Toàn bộ lượng nước thải được dẫn trở lại các trung tâm xử lý, lọc lại, sau đó được dẫn ngược trở lại theo các đường ống để sử dụng tưới tiêu cho nông nghiệp.

Hệ thống ống dẫn nước tưới được dẫn đến từng khoảnh vườn, tới từng cây và việc tưới được vi tính hóa qua hệ thống điều khiển ở trung tâm về thời gian tưới, lượng nước tưới sao cho phù hợp nhất với thời tiết, độ sinh trưởng của từng loại cây. Cũng từ trung tâm, các kỹ sư nông nghiệp sử dụng luôn đường ống dẫn nước để dẫn phân bón hoặc chất dinh dưỡng cần cho cây theo định kỳ.

Tại đầu từng khoảnh vườn, có bảng ghi chi tiết vườn trồng cây gì, giống nào, từ khi nào… Nhìn chung các cây trồng (cam, bưỏi, cà chua, ớt.. ) là những loại cây trồng có năng suất cao, đã được lai ghép cho phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng Israel là chịu nắng, chịu khô, chịu sâu bệnh nhưng lại cho năng suất cao và chất lượng quả, trái cây tốt.

Mỗi cây cam hoặc bưởi trông thấp như vậy nhưng lại rất sai quả và có thể cho đến vài tạ quả/cây khi đến mùa thu hoạch. Với lợi thế là trồng cây quả nhiệt đới có chất lượng cao, ổn định, hệ thống kiểm định chất lượng chặt chẽ, ở ngay sát châu Âu và cung cấp những hoa quả nhiệt đới “trái vụ” khi châu Âu bước vào mùa đông nên hoa quả Israel có rất nhiều lợi thế về giá và thị trường.

Đây có lẽ chính là mô hình đầu tư, sản xuất, phát triển và kinh doanh nông nghiệp mà một nước nông nghiệp như chúng ta cần học hỏi và để làm giàu tại ngay chính mảnh đất quê hương mình. Nếu so với Israel, có lẽ đất đai miền Trung Việt Nam còn màu mỡ và có các điều kiện tự nhiên để sản xuất tốt hơn nhiều. Ngay một nước có nền nông nghiệp phát triển nhất ở khu vực như Thái Lan cũng có hàng ngàn thực tập sinh lao động trong các trang trại, mà thực chất là lao động xuất khẩu.

Có điều ít người để ý là trong khi thực tập sinh Việt Nam chăm chỉ làm lụng, tiết kiệm từng đồng gửi về cho gia đình, vợ con, thì khá nhiều “lao động” Thái là các “tình báo” nông nghiệp. Họ là các kỹ sư, con cái các chủ nông trại Thái, những người nuôi chí làm giàu bằng nghề nông và sử dụng thời gian lao động tại Israel như một hình thức “khổ nhục kế”, âm thầm tìm hiểu quy trình sản xuất, kinh doanh, quản lý… để tìm đường khởi nghiệp làm giàu cho mình và cho nước Thái sau này.

Vậy ta nên và sẽ làm gì? Xin nhường câu trả lời cho các bạn trẻ.

Kinh Do Thái, lối sống, bản sắc, và tiếng Hebrew

Có ba câu chuyện ngồi ngẫm lại thấy khá hay và cũng phần nào liên quan đến chủ đề sắp bàn dưới đây.

CÂU CHUYỆN 1: Công việc đã xong, nhưng rủi một cái là không thể bay về được vì là ngày Thứ 7 nên hãng hàng không Israel El Al không làm việc. Nhưng lại có cái may là nhờ đó hiểu được thêm về kỳ nghỉ cuối tuần Thứ 6 và Thứ 7 (lễ Sabbath, người Do Thái đi làm từ Chủ nhật đến hết Thứ 5) của người Do Thái. Khi đi trên đường, đặc biệt ngày Thứ 7, thấy đường phố vắng ngắt và gặp không ít đàn ông Do Thái chính thống (Jewish Orthodox) mặc bộ đồ đen, đầu cũng đội mũ đen rộng vành, đứng trên vỉa hè, hai tay cầm quyển Kinh thánh Do Thái đọc lẩm nhẩm hàng tiếng đồng hồ với động tác hết sức thành kính và giữa trời nắng chang chang, trong khi đầu gật tới gật lui. Điều này không chỉ gây cho tôi sự ngạc nhiên thích thú, mà còn gợi ra rất nhiều điều.

CÂU CHUYỆN 2: Trước đó, khi chia tay Đại sứ Dan Stav, người tháp tùng trong suốt chuyến đi, tôi có nói rằng “Khi tôi mới đến nơi, ông Đại sứ có nói Bộ Ngoại giao Israel có khoảng 1000 nhà ngoại giao. Giờ đây khi đã xong các cuộc tiếp xúc tôi chỉ đồng ý một nửa. Các ông không chỉ có 1000 nhà ngoại giao, mà đó còn là 1000 Giáo sư nữa”. Dan ngửa mặt cười ha hả. Quả thực, hiếm có nước nào, kể cả các cường quốc, lại có nhiều nhà ngoại giao nắm giữ các vị trí chủ chốt nhưng lại có trình độ khá đều tay, am hiểu sâu chuyên môn và có thể trình bày vấn đề mạch lạc như một giáo sư đại học. Không chỉ rành chuyên môn, họ còn thể hiện tác phong hết sức chuyên nghiệp, động tác mạnh mẽ, dứt khoát.

CÂU CHUYỆN 3: Khi vào phòng làm việc với Lãnh đạo Bộ Ngoại giao và Bộ Quốc Phòng của họ, tôi hơi ngạc nhiên khi thấy phòng khách bày biện khá đơn giản, không rõ chỗ ngồi của chủ và khách. Bèn hỏi cô lễ tân là ngồi thế nào, cô để “Sếp” cô ngồi đâu. Câu trả lời là: Các ông ngồi thế nào thì tùy và chỉ cần để một chỗ cho ông ấy ngồi là OK. Sau này mới thấy rõ hơn, trừ một số cuộc gặp phải tuân thủ một số nghi lễ ngoại giao bắt buộc, việc ngồi tự do (free sitting) tạo không khí thảo luận thoải mái và bình đẳng giữa chủ và khách, càng ngạc nhiên hơn khi đây cũng chính là cách người Israel ngồi khi thảo luận nội bộ!

Quay trở lại Phần 1, tôi thấy rằng các câu trả lời về nguyên nhân thành công của người Do Thái, sự cố kết của dân tộc này đều khởi nguồn từ 3 yếu tố chính (i) cuốn Kinh Do Thái (Jewish Bible), (ii) cách thức duy trì Đạo, bản sắc và lối sống Do Thái; và (iii) tiếng Hebrew. Các vấn đề khác như “gien” và tố chất thông minh của người Do Thái; tính hiếu học, ham hiểu biết và sáng tạo; cách duy trì và tổ chức cuộc sống, đời sống xã hội một cách văn minh, lành mạnh của họ đều bắt nguồn từ 3 yếu tố trên. Và cũng thật trớ trêu, đây lại là nguyên nhân chính khiến họ bị xua đuổi, miệt thị, truy sát trong hơn 20 thế kỷ qua. Tôi cũng nghiệm thấy rất ít dân tộc, quốc gia có thể học được theo họ, trừ phi anh cũng trở thành… người Do thái như họ!

Ta hãy đi từng vấn đề một:

Thứ nhất, Israel là đất nước duy nhất trên thế giới được định hình bởi 4 yếu tố mang đậm chất Do Thái là: (i) Dân tộc Do Thái, (ii) Đạo Do Thái, (iii) văn hóa Do Thái, và (iv) Đất nước Do Thái.

Trong các tôn giáo trên thế giới, Đạo Do Thái được ghi nhận là đạo có tuổi đời lâu thứ hai trên thế giới (ra đời cách đây khoảng 3000 năm), sau Đạo Hindu (ra đời cách đây khoảng 4000 năm). Tuy nhiên, do Hindu là đạo đa thần, nên Do Thái giáo có thể xem là đạo độc thần (Monotheistic) ra đời sớm nhất thế giới. Đạo Độc thần là đạo chỉ thờ 1 vị chúa/thần/hoặc thánh duy nhất. Đạo Do Thái chỉ thờ duy nhất Chúa trời, nên trên bàn thờ trong nhà thờ Do Thái họ trang trí đơn giản, không thờ người hoặc động vật. Họ cho rằng, người là người, dứt khoát không thể là chúa hay thánh được và chỉ có một Đức Chúa trời duy nhất. Phải chăng điều này làm cho người Do Thái cũng như sinh hoạt tôn giáo của họ “dân chủ” hơn do không bị phân tán, mất bớt quyền lực qua các nhân vật trung gian?

Một điều rất đặc biệt là trong cuốn Kinh Torah (gồm 5 tập, ghi lại các lời của Nhà tiên tri Moses) có ghi người Do Thái được Đức chúa trời chọn (the Chosen People) để truyền đạt thông điệp của Chúa cho các dân tộc khác, dẫn dắt và khai sáng các dân tộc khác. Người Do Thái rất tin vào điều này, tin vào “sứ mạng” được Chúa giao phó. Đây có lẽ là động lực lớn nhất khiến người Do Thái luôn tìm cách đạt đến đỉnh cao của khoa học, phấn đấu đủ tầm trí tuệ “dẫn dắt” nhân loại như họ nghĩ đã được “Chúa lựa chọn”. Do đó, điểm nổi bật nhất ở người Do Thái là họ thấy mục đích cao nhất của cuộc sống là sáng tạo, chứ không chỉ là kiếm tiền, và kiếm tiền cũng như sự giàu có của họ thực ra là hệ quả của các lao động sáng tạo chứ không phải mục đích mà họ theo đuổi.

Thứ hai, trong bất kỳ tôn giáo nào, tính “Giáo điều” đều tồn tại, duy chỉ khác nhau về mức độ. “Giáo điều” là những điều được ghi trong kinh/kinh thánh hoặc được các Bề trên giảng và được coi mặc nhiên đúng, không bàn cãi. Tuy nhiên, bản kinh Torah của người Do Thái lại rất gợi mở để mọi người suy nghĩ, khám phá. Trong 5 cuốn Kinh Torah thì có đến 4 cuốn nói về luật và 1 cuốn về các vấn đề trong cuộc sống, sinh hoạt hàng ngày. Torah ghi các vấn đề trong cuộc sống, đặt ra các câu hỏi, gợi mở để suy nghĩ, nhưng lại không chỉ có một câu trả lời, mà có nhiều câu trả lời tùy thuộc bối cảnh khác nhau, và thậm chí còn để khoảng trống để mọi người cho trí tưởng tượng bay bổng với các hỏi và câu trả lời. Trong bữa cơm gia đình cuối ngày, hoặc trong ngày Sabbath, các thành viên trong gia đình, trong cộng đồng đọc và tranh luận các điều ghi trong kinh thánh, và có thể chính điều này làm tăng thêm năng lực trí tuệ, làm cho họ rất giỏi về luật.

Thứ ba, các bạn Israel cho biết, cuốn Kinh Torah giống như một cuốn sách khoa học hơn là một cuốn kinh với các “Giáo điều”. Chẳng hạn, trong Kinh Torah ghi rõ ngày Thứ 7 là ngày Chúa nghỉ ngơi, nên tất cả mọi người Israel, kể cả các nô lệ và súc vật không được làm việc trong những ngày này. Ngày lễ Thứ 7 của họ gọi là ngày lễ Do Thái (Sabbath) được xem là ngày “nghỉ tuyệt đối”, theo đó Chúa khuyên các thành viên trong gia đình dành thời gian này bên nhau, cùng trò chuyện, đi chơi, vợ chồng “yêu” nhau, gia đình cùng nhau đi đến nhà thờ (Synagogue). Trong ngày này, mọi người không được bật lửa (vì thời xa xưa, bật lửa có nghĩa là phải vào bếp nấu nướng, tức vẫn “đi làm”) và ăn đồ ăn được chuẩn bị từ hôm trước. Thậm chí thang máy trong các cao ốc cũng để “chế độ Sabath”, tức người Do Thái không dùng tay bấm nút (biểu hiện của “làm việc”), mà để thang tự chạy automatic và mở cửa trước từng tầng một từ tầng thấp nhất đến tầng cao nhất của tòa nhà. Ngày Chủ nhật là ngày làm việc đầu tiên của họ, và điều ngạc nhiên là theo cách gọi trong Kinh thánh Do Thái các ngày làm việc trong tuần theo tuần tự là các ngày “sáng tạo”, chứ không phải ngày “đi làm”.

Chỉ bấy nhiêu thôi cũng gợi ra một số điều thú vị:
  • Ngày thứ 7 nghỉ tuyệt đối để lấy sức lao động cho các ngày khác trong tuần và đây có thể là nguồn cảm hứng cho việc đấu tranh đòi quyền của người lao động sau này;
  • Lễ Sabbath tạo sự gắn kết giữa các thành viên trong gia đình (khi cả nhà cùng ngồi ăn quay quần bên nhau), và giữa các thành viên trong cộng đồng (khi hàng xóm cùng kéo nhau đến nhà thờ);
  • Là cơ sở của việc đấu tranh giành quyền bình đẳng phụ nữ (không lao động trong ngày Sabbath) sau này, cũng như quyền của động vật;
  • Vợ chồng “sản xuất” em bé trong ngày nghỉ khi tinh thần thoải mái thì đứa trẻ sau này cũng sẽ thông tuệ hơn.

Người Do Thái coi trọng chuyện học hành

Người Do Thái rất chú trọng đến chuyện học hành và chữ nghĩa của con cái. Cuốn Kinh Talmud từ cách đây trên 2000 năm đã yêu cầu các ông bố, bà mẹ phải dạy cho con cái biết đọc, biết viết từ năm lên 6 tuổi. Điều này, cũng như một số giáo lý khác trong kinh Talmud, được người Do Thái thực hiện hết sức nghiêm túc (sẽ nói kỹ sau), một phần vì thấy đúng, một phần vì sợ bị cộng đồng xa lánh. Do đó, từ cách đây trên 2000 năm người Do Thái cơ bản xóa được nạn mù chữ, với trên 90% người dân biết đọc, biết viết.

Đối với cuộc sống của con người hiện đại thời nay, điều này là quá sức bình thường. Tuy nhiên, đặt trong bối cảnh người Do Thái là những người du mục, nông dân, thậm chí tha phương cầu thực mà vẫn giữ được truyền thống này, trong bối cảnh tới trên 90% dân châu Âu và các sắc dân khác ở Bắc Phi, Trung Đông ở xung quanh thời đó mù chữ thì đây quả là điều phi thường. Không chỉ thời nay người Do Thái mới được trọng dụng và phát huy vai trò, mà vào thời cực thịnh của Đạo Hồi (thế kỷ IX-XIII) sau Công nguyên, người Do Thái được người Hồi giáo tin dùng và đóng vai trò nổi trội là các thương gia biết tính toán, “ăn nên, làm ra” với hệ thống buôn bán kéo dài từ Trung Đông, qua Nam Á và Đông Nam Á, thậm chí tới Thượng Hải.

Vậy trong điều kiện bị chiếm đóng và lưu lạc, họ duy trì được chữ viết và tiếng nói của mình ra sao trong hàng ngàn năm mà không bị mai một? Câu trả lời chính là sự sùng đạo và cuốn kinh Do Thái viết bằng tiếng Hebrew.

Hầu hết những người Do Thái mà tôi gặp, dù là người Chính thống hay người Do Thái bình thường, đều nói rằng khi gặp nạn, vật đầu tiên và cũng là vật quý giá nhất mà người Do Thái đem theo đầu tiên đó chính là CUỐN KINH THÁNH, chứ không phải bất cứ vật dụng nào khác. Cuốn Kinh thánh Do Thái (Hebrew Bible) đối với họ vừa là đức tin, vừa là lịch sử, vừa là nguồn tri thức, vừa giúp họ giữ được bản sắc, vừa giúp họ có tương lai:

Một là, sự sùng đạo, khiến người Do Thái phải đọc kinh liên tục, đọc thuộc làu, đọc ở trong nhà, đọc ngoài đường, đọc ở nhà thờ… giúp người Do Thái giữ được tiếng nói, nhận diện được ngôn ngữ đặc trưng của mình và được truyền từ đời này qua đời khác.

Hai là, khi lưu lạc sang các xứ khác nhau, ngữ âm của họ có bị thay đổi do phát âm theo thổ ngữ địa phương, nhưng cơ bản họ vẫn hiểu được nhau dù lang bạt hàng ngàn năm, và tới tận 73 quốc gia và lãnh thổ khác nhau. Điều đó giải thích tại sao người Do Thái từ “tứ xứ” đổ về, nhưng đã nhanh chóng gắn kết với nhau ngay sau khi Israel được tái lập năm 1948.

Ba là, không chỉ thạo tiếng Hebrew, mà người Do Thái còn thạo tiếng bản địa nơi họ sinh sống. Như vậy trên thực tế, người Do Thái sử dụng thông thạo hai ngoại ngữ từ rất sớm. Khoa học đã chứng minh, những người hoặc nhóm cộng đồng sử dụng được trên 1 ngoại ngữ thường có chỉ số IQ lớn hơn nhóm, hoặc người sử dụng ít ngôn ngữ hơn. Không chỉ vậy, kinh thánh không chỉ là phương tiện duy trì ngôn ngữ, mà còn giúp họ mở mang các kiến thức luật, kinh tế và khoa học thông thường ở trong đó.

Bốn là, niềm ao ước tột cùng trở về Jerusalem cũng được ghi trong Kinh thánh. Thời cổ đại, dù muốn đi đâu, làm ăn gì, thì người Do Thái cũng quy ước về quần tụ tại Jerusalem để hành lễ ít nhất là 4 lần 1 năm. Đến nay, truyền thống đó vẫn được duy trì và người Do Thái ở Israel thường về Jerusalem mỗi năm một lần, còn người Do Thái ở khắp nơi trên thế giới thì về ít nhất 1 lần trong đời. Kinh Thánh Do Thái ra đời trong bối cảnh người dân Do Thái đã từng mất tổ quốc, mất Jerusalem trong một thời kỳ dài từ hàng trăm năm trước đó. Do đó, Kinh Thánh nhắc nhở người Do Thái rất kỹ về điều này. Truyền thống có từ cả ngàn năm nay và đến nay vẫn được duy trì trong cộng đồng Do Thái, là khi gặp nhau, hoặc khi viết thư, họ thường nói đến việc “sớm hẹn gặp nhau tại Jerusalem”, “hẹn gặp tại Jerusalem vào năm tới”. Do đó, ước nguyện trở về Jerusalem, lấy lại Jerusalem luôn cháy bóng trong mỗi người Do Thái và họ không bao giờ quên điều này khi tha hương.

Đạo Do Thái và việc duy trì nòi giống

Việc thực hiện nghiêm ngặt các phong tục tập quán của Do Thái giáo giúp người Do Thái sàng lọc gien “xấu”, lấy và nhân giống gien “tốt”. Thực ra, không chỉ người Do Thái làm vậy, mà các dân tộc khác như ngoài Hoa và Việt Nam cũng có những vần thơ để chọn người xứng đôi, vừa lứa như “Trai anh hùng, gái thuyền quyên”, “Nữ tuệ tam tài nguyên thị đối” (Gái giỏi trai tài nom thật đối), v.v…. Chắc chắn đây không chỉ là chuyện “tâm đầu, ý hợp” của trai gái, mà còn liên quan đến việc duy trì nòi giống sau này.

Nếu như người Đông Á chỉ dừng lại ở mức “khuyên răn” thì người Do Thái đã “luật hóa” và “hệ thống hóa” được việc chọn lọc có chủ đích thay cho việc chọn lọc tự nhiên, vô thức để “hoàn thiện” và “phát triển” gien của mình:

Một là, trong Đạo Do thái, Giáo sĩ (các Rabbis) là những người được chọn từ những người thông minh nhất. Các Rabbis là người diễn giải Kinh thánh có uy tín và trọng lượng nhất, duy trì các giá trị “chính thống” và được xã hội hết sức trọng vọng. Tuy là thầy tu, nhưng các Rabbis vẫn có con như những người bình thường, và thậm chí có rất nhiều con. Do có uy tín cao trong xã hội, nên họ dễ dàng chọn hôn thê và hôn thê được họ ưu tiên chọn thường là con cái của các học giả (scholars), rồi sau đó mới đến con các nhà buôn.

Hai là, không chỉ các Rabbis chọn như vậy, kinh thánh Do Thái thậm chí còn khuyên mọi người là nếu có tiền của thì hãy tìm cách cho con cái của mình lấy con gái của các học giả. Kinh thánh khuyến khích người Do Thái sinh nhiều con, cho rằng sinh 13 con thì sẽ có nhiều may mắn. Nhưng trên thực tế lại có các “phanh hãm” đối với người nghèo, người ít học là sinh ra con cái nhưng phải đảm bảo các điều kiện kinh tế và tài chính. Chính điều này làm cho người nghèo, người ở tầng lớp thấp không “sinh tràn lan”, mà sinh có trách nhiệm và số người này chiếm tỷ lệ ngày một ít đi trong so sánh tương đối với những người có “gien” tốt, hoặc có điều kiện vật chất tốt hơn. Trải qua hàng ngàn năm chọn lọc có điều kiện như vậy nên việc có được nhiều gien tốt trong người Do Thái là điều dễ hiểu.

Ba là, trong quan niệm Do Thái chính thống, và ngay tại các khu vực người Do thái chính thống sinh sống hiện nay tại Israel, phụ nữ, con gái không bao giờ được “bén mảng” đến Nhà thờ. Trái lại, đàn ông dù bận công việc đến mấy cũng tìm cách đến nhà thờ vào lúc 6h chiều hàng ngày để làm lễ trước khi về nhà. Tuy nhiên, phụ nữ Do Thái lại được xem là có “quyền năng” tuyệt đối trong việc duy trì nòi giống. Con của một phụ nữ Do Thái đương nhiên được coi là người Do Thái, còn con của người đàn ông Do Thái với một phụ nữ không phải Do Thái thì chỉ được coi là người Israel (nếu như sống ở Isael), chứ không được coi là người Do Thái. Thời xa xưa, việc gia đình người Do Thái có một cô con gái lấy chồng không phải người Do Thái bị coi là “nỗi nhục” của cả gia đình và dòng họ, và người bố “từ con” bằng cách đào một nấm mộ giả coi như đứa con mình dứt ruột đẻ ra đã chết.

Nhiều nhà thần học mà tôi có điều kiện tiếp xúc cho rằng Đạo Do Thái hiện là một trong số ít tôn giáo “giữ” được “kỷ cương” khá tốt. Tuy nhiên vẫn còn có nhiều ý kiến khác nhau xung quanh câu chuyện này và cần nghiên cứu sâu hơn mới có câu trả lời thỏa đáng. Quả thực, bất kỳ tôn giáo lớn hoặc quan trọng nào đều đứng trước 3 thách thức lớn trong quá trình phát triển, đó là:
  • Duy trì được sự thống nhất, giữa các dòng, nhánh, xu hướng khác nhau trong cùng một tôn giáo, duy trì một đức tin chung trong thể thống nhất. Ví dụ, sự phân liệt rõ nhất thể hiện ở Đạo Hồi hiện nay với các dòng Shia, Suni, rồi nhánh Wahabis thuộc Suni, nhánh Alewite, Druze thuộc dòng Shia…, mà dòng, nhánh nào cũng cho mình mới là “chính thống”, còn những dòng, nhánh khác là “ngoại đạo”, cần bị loại bỏ để làm “trong sạch” Đạo Hồi;
  • “Đồng hành” cùng xã hội hiện đại, nhưng vẫn duy trì các giá trị, các nguyên tắc “cốt lõi” (tức tính chất “chính thống”, mặc dù việc diễn giải và tự nhận các tính chất này còn nhiều điều phải bàn);
  • Tránh việc tạo ra một tầng lớp “tăng lữ” mới, với các đặc quyền, đặc lợi, hủy hoại chính tôn giáo của mình.
Do Thái giáo cũng không phải là ngoại lệ, nhưng ít gặp các “vấn nạn” ở trên hơn, do:
  • Ngay khi ra đời, Do Thái giáo đã không có “vấn nạn”, đưa đến sự kình chống nhau sâu sắc giữa các dòng tu. Đạo Hồi chẳng hạn, ngay sau khi Nhà tiên tri Mohamed qua đời, sự giằng xé giữa những người cho rằng cần phải chọn người thừa kế hoặc có dòng màu trực hệ để “hướng đạo” hạy chọn những người có khả năng nhất trong việc kế thừa và phát triển di sản của Mohamed đã đưa đến việc phân chia Hồi giáo thành 2 nhánh lớn là Shia và Suni. Do Thái giáo cũng có những dòng hết sức cực đoan, thậm chí không công nhận Nhà nước Israel, nhưng họ vẫn hợp tác, và không đi đến chỗ đối đầu nhau bằng bạo lực. Những người có tác dụng giữ sự hòa hợp và thống nhất Đạo Do Thái là các giáo sĩ và Hội đồng giáo sĩ.
  • Trong hệ thống luật dân sự của Israel, còn có luật Do Thái Halakha tương tự như luật Sharia của Hồi giáo mà một số nước như Arab Saudi, Brunei… áp dụng. Halakha bao gồm 613 điều răn (commandments) với hệ thống tòa án riêng, và các “bản án” tôn giáo đối với người có đạo thậm chí còn đáng sợ và nghiêm khắc hơn các bản án dân sự. Luật Halakha tồn tại trong mọi ngóc ngách của đời sống xã hội, can thiệp sâu và điều chỉnh rất nhiều quy tắc, tập tục của đời sống xã hội. Nếu không tuân theo Halakha, các Rabbis có quyền rút “Phép thông công” (excommunicate) – tương đương với một bản án tử hình – và điều này cũng đồng nghĩa với việc khi qua đời, linh hồn người chịu hình phạt đó không được bay lên Thiên đàng.
  • Người theo Đạo chính thống Orthodox tin và tự chọn cho mình lối sống theo các giá trị truyền thống và nguyên tắc nguyên thủy. Tuy nhiên, họ không tìm cách áp đặt lối sống của mình hay kỳ thị những người thế tục. Bản thân các Giáo sĩ (Rabbis) và những người Orthodox không được hưởng đặc quyền, đặc lợi, họ thỏa mãn với cuộc sống thanh bạch của mình. Trong đạo Hồi chẳng hạn, những người Wahabbis cũng có cuộc sống thanh bạch, khắc khổ, nhưng điều nguy hại là họ lại tìm cách áp đặt lối sống của mình lên những dòng, nhánh khác.
  • Khác với các Đạo giáo khác là tìm mọi cách truyền đạo để mở rộng thành viên, càng nhiều càng tốt. Tuy nhiên, để trở thành một người Do Thái rất khó, phải có căn cứ, bằng chứng xác nhận tới ít nhất 4 đời trước đó và quy theo mẫu hệ. Họ cho rằng, đã là “thiên sứ nhà trời”, “được chúa chọn” thì chỉ có ít người được hưởng vinh dự, chứ đâu có thể kết nạp tràn lan, cứ vào đến synagogue (nhà thờ Do Thái) là trở thành Do Thái ngay được.

Trong những điều kiện khắc nghiệt thời kỳ Đế quốc La mã là bá chủ khu vực Trung Đông, để tránh bị truy đuổi và tận diệt, người Do Thái buộc phải cải đạo sang đạo Thiên chúa. Tuy nhiên họ lại cải đạo trở lại thành người Do Thái khi điều kiện cho phép. Bản thân Hitler là người rất căm thù dân Do Thái, một cộng đồng đoàn kết nhưng sống tách biệt với người bản xứ. Trong con mắt Hitler, đã sinh ra là một người Do Thái thì sẽ luôn luôn là một người Do Thái, cải đạo chẳng giúp ích gì, và quyết truy sát 1 người nếu tìm được bằng chứng trước đó 4 đời họ là người Do Thái.

Tản mạn thay lời kết: Chuyện ăn uống và tố chất của người Do Thái

Đồ ăn Kosher (Kosher food) là đồ ăn được chế biến và ăn theo kiểu Do Thái. Đối với người Do Thái Chính thống, việc sử dụng Kosher là điều gần như bắt buộc, còn đối với người thế tục thì tùy lựa chọn. Các canteen phục vụ tai các cơ quan chính phủ Israel như Bộ Ngoại giao hay Bộ Quốc phòng nghiễm nhiên là các nhà hàng phục đồ ăn Kosher. Đồ ăn Kosher hiện ngày càng trở nên phổ biến tại Israel và trên khắp thế giới và không chỉ người Do thái chính thống mới dùng. Hiện nay, có 100.000 loại thực phẩm Kosher khác nhau được bán trên phạm vi toàn thế giới.

Vậy Kosher là gì và ăn như thế nào? Trong Halakha quy định rất rõ, chi tiết và khá phức tạp, nhưng chung quy lại có một số điểm chính:

Về các thức ăn Kosher:
  • Một số con vật ăn được: chỉ ăn những con vật có móng chẻ, ăn cỏ và nhai thức ăn lại như bò, dê, cừu. Các con vật không ăn được là lợn, ngựa, và lạc đà. Lợn tuy có móng chẻ nhưng không nhai lại, còn ngựa, lạc đà tuy ăn cỏ nhưng không có móng chẻ.
  • Ăn các loài có cánh như gà, vịt, ngỗng, bồ câu… Không ăn các loài chim ăn thịt như diều hâu, chim ưng, đại bàng.
  • Ăn các loài cá có vây và vẩy như các hồi, cá ngừ, cá trích… Không ăn các con cá không vảy như lươn, các trê, cá tầm, tôm, tép, nghêu sò, ốc hến, các loài bò sát, côn trùng.
  • Các thức ăn trung tính như trái cây, nước trái cây, ngũ cốc, trứng gà vịt, mật ong, rượu vang, chè, café.
Về cách ăn đồ Kosher:
  • Chỉ uống sữa và các vật phẩm chế biến từ sữa của các con vật Kosher như bò, dê, cừu. Chỉ được dùng sữa và các vật phẩm chế từ sữa 6 tiếng sau khi dùng thịt, hoặc 30 phút trước khi ăn thịt chứ không được ăn, uống đồng thời. Đồ chế biến sữa và thịt, kể cả chậu rửa bát nhất thiết phải dùng riêng.
  • Lúa mì, gạo, và một số loại rau, củ nhất định thì ăn được. Không ăn, uống nước trái cây hoặc đồ chế biến từ các loại loại quả như cam, quýt, bưởi… dưới 3 tuổi.
  • Không ăn nội tạng động vật hay gia cầm; không ăn phần phía sau của con thú và không ăn thịt, cá đồng thời.
  • Khi ăn thịt phải lấy hết sạch máu và người chế biến phải học cách giết con vật sao cho con vật chết nhanh nhất, không đau đớn, nhưng lại ra được hết tiết. Thậm chỉ còn phải rửa sạch và ngâm miếng thịt trong nước 30 phút trước khi chế biến để ra hết máu,
  • Các nhà hàng Kosher nhất thiết phải do đầu bếp Do thái chính thống trực tiếp nấu nướng và bị phạt rất nặng, kể cả tước giấy phép kinh doanh, hành nghề nếu vi phạm.
Có lẽ trên thế giới không có dân tộc nào có kiểu ăn “kiêng, khem” phức tạp và rườm rà như người Do Thái chính thống. Các nhà hàng phục vụ đồ ăn Kosher thường đắt hơn từ 20-30% so với nhà hàng thông thường, vậy mà lúc nào cũng đông khách ăn.

Theo tôi, đây không chỉ là đồ ăn kiêng của người Do Thái, mà THỰC CHẤT KOSHER LÀ ĐỒ ĂN, CÁCH ĂN THÔNG MINH, KHOA HỌC, THẬM CHÍ LÀ LÝ TƯỞNG không chỉ của người Do Thái, mà của con người nói chung. Nếu chỉ khuyên nhủ thông thường sẽ ít người theo, nhưng khi khoa học được “phủ” một lớp màu tôn giáo thì Kosher đã trở nên thành món ăn kỳ ảo, mê hoặc và quyến rũ.

Tạm cắt nghĩa một số thứ:
  • Theo người Do Thái, con vật cũng như con người đều có linh hồn. Nếu làm cho con vật chết đau đớn thì nó sẽ oán trách và cả người thịt lẫn người ăn nó đều bị “quở phạt”. Do đó, giết nhanh để con vật mau chóng được hóa kiếp lên thiên đàng.
  • Khi con vật cắt được tiết nghĩa là con vật còn tươi, chứ không phải ăn đồ ôi. Thú tính và sự ngu muội của con vật nằm ở “dòng máu”, và ăn thú vật hay gia cầm có tiết sẽ làm con người lâu dần nhiễm “thú tính” và đầu óc trở nên trì độn, còn nòi giống đi đến chỗ thoái hóa.
  • Thịt ăn cùng với cá không còn tác dụng bổ dưỡng nữa, mà triệt tiêu lẫn nhau. Còn trái cây trong 3 năm đầu thường chứa nhiều chất, độc tố có hại cho cơ thể.
  • Uống sữa sau khi ăn thịt không tốt cho sức khỏe vì bản thân thịt nhiều chất đạm, lâu tiêu lại có thêm chất bổ dưỡng khác nữa làm cho cơ thể không thể hấp thụ nổi và dễ sinh bệnh.
  • Trong điều kiện thiên nhiên hết sức khắc nghiệt của vùng Bắc Phi – Trung Đông, việc ăn uống tốt giúp người Do Thái chống chọi tốt hơn với khí hậu khắc nghiệt, làm cho không chỉ thể trạng khỏe khoắn mà trí tuệ của họ cũng hơn người. Các cụ nhà ta chả nói bệnh vào từ mồm đó sao?

Như vậy, trải qua cả ngàn năm, với cuốn Kinh Thánh Hebrew, người Do Thái không chỉ thành công trong việc bảo tồn, mà còn phát triển bản sắc, văn hóa, tôn giáo của mình. Không những vậy, thông qua ăn uống, cuộc sống tinh thần lành mạnh, làm cho “gien Do Thái” vốn đã ưu việt, ngày một trở nên ưu việt hơn. Khác với các tôn giáo khác, người Do Thái không tìm cách phát triển tôn giáo của mình qua con đường truyền đạo như Đạo Hồi, Đạo Thiên chúa, hay Đạo Phật, mà tìm cách giữ sao cho Do Thái giáo càng “thuần khiết” càng tốt. Phải chăng những người được Chúa “chọn mặt gửi vàng” đâu có thể phát triển tràn lan được!

Có lẽ chính vì vậy mà cách đây từ trên 3.000 năm Nhà tiên tri Moses của người Do Thái đã lường trước điều này khi ông, ngay từ khi đó, đã hình dung ra rằng nếu người Do Thái làm theo các lời răn dạy của ông thì họ sẽ trở thành đối tượng bị săn đuổi và tận diệt của nhiều sắc dân khác và vì vậy đã chuẩn bị cho họ hành trang đầy đủ trong cả ngàn năm thiên di trước khi “trở về Jerusalem”. Điều ngạc ngạc nhiên là người Do Thái không than thân, trách phận mà họ coi đó là “sự thử thách” của Chúa trời đối với dân tộc Do Thái!

Hoàng Anh Tuấn​

TS. Hoàng Anh Tuấn là Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chiến lược và Ngoại giao, Bộ Ngoại giao Việt Nam. Bài viết tổng hợp những ghi chép đăng lần đầu trên trang Facebook của tác giả về chuyến công tác tới Israel gần đây.
 


Last edited by a moderator:
Thật thú vị.
Có điều ít người để ý là trong khi thực tập sinh Việt Nam chăm chỉ làm lụng, tiết kiệm từng đồng gửi về cho gia đình, vợ con, thì khá nhiều “lao động” Thái là các “tình báo” nông nghiệp. Họ là các kỹ sư, con cái các chủ nông trại Thái, những người nuôi chí làm giàu bằng nghề nông và sử dụng thời gian lao động tại Israel như một hình thức “khổ nhục kế”, âm thầm tìm hiểu quy trình sản xuất, kinh doanh, quản lý… để tìm đường khởi nghiệp làm giàu cho mình và cho nước Thái sau này.
 
Điều ngạc ngạc nhiên là người Do Thái không than thân, trách phận mà họ coi đó là “sự thử thách” của Chúa trời đối với dân tộc Do Thái!

Hoàng Anh Tuấn​

TS. Hoàng Anh Tuấn là Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chiến lược và Ngoại giao, Bộ Ngoại giao Việt Nam. Bài viết tổng hợp những ghi chép đăng lần đầu trên trang Facebook của tác giả về chuyến công tác tới Israel gần đây.

Trước đây , MT cũng có lần tự đặt câu hỏi về vấn đề này và MT nghiêng về kết luận : Đức Tin là nguyên nhân chính giúp họ thành công .

Khi Đức Tin đồng qui thì sẽ sinh ra một lực vô cùng lớn .

Chỉ trừ một số nước , phần các nước còn lại thì thường có tính cục bộ .. Cục bộ từ trong gia đình ra tới ngoài xã hội . Vì vậy , khó thể mà theo cách của người Do Thái mà ứng dụng được .
.......................

P/ s : Bác Thuỷ Canh xem ra còn lẩn thẩn hơn tui à nhe ! Bác biết là binh nhất như tui một khi Chủ đề khoá thì hổng được vào đó mà . Sao có thể trả lời Bác được ?
 
Bác Mây Trắng,
Vậy mà vào được, hì hì... tui mượn mấy câu, tặng tác:

Đặt tay vào chỗ không thể đặt
Vậy mà đặt được chẳng làm sao
Mười năm gặp lại trên hè phố
Cười tủm còn thương chỗ đặt vào
Mai Thảo

Nhờ chủ Topic, chúng ta được đọc bài hay quá!
Có rảnh, bác xem lai quyển Exodus. Tui đọc gần 50 năm trước. Tui cũng sẽ đọc lại để thấy ngày trước, thế nào.
Vui nhé! Bác nhé!
Thân ái.
 
Last edited:
@ Hi ... Hổng hiểu sao dạo này tui nói nghĩa đen mà Bác Mục Tử và Bác lại nghĩ ra nghĩa bóng vậy hổng biết .

Chủ đề kia đóng rồi . TL vào không được . Vậy mạn phép Chủ Topic cho TL tâm sự với Bác Thủy Canh vài dòng ...
------------------------

Mình cùng Ôn Cố Tri Tân Bác Thủy Canh nhé !

* Nhớ hồi đó Bác Mục , Bác và tui trò chuyện với nhau rất nhiều lần . Vui có , buồn có , khẩu chiến có mà hỗn chiến ... cũng có luôn .

Tuy nhiều lần ... đau . Nhưng mà hổng có ai kêu vì tuân theo luật "bất thành văn " vui là chính . Cũng có đôi lần ... tui đau quá phải Xí nghỉ ... để về núi dưỡng thương . Hết đau lại vào chơi tiếp . Hi hi

Nhớ lại những ngày ấy vui biết mấy . Nhưng rồi ... không biết tự khi nào mà ai đó "xé rào" nguyên tắc này ( Có lẽ khi ấy tui dưỡng thương nên không nắm được ) mà dẫn đến cục diện ngày hôm nay .
Thật đáng tiếc .

* Tính ra so tuổi đời , so số lượng bài viết thì TL thuộc hàng chót chét . Nhưng cũng mong các Bác nghe một lời công bằng :

- Ai cũng có lúc sơ sót . Viết càng nhiều ... khả năng sơ sót càng cao . Nếu cứ nhằm vào sơ sót của người mà khai thác thì thành ra làm khó người ( mà cũng là làm khó mình )

- Điển hình như bài Bác Thuỷ Canh dẫn về vậy . Thật ra là TL chỉ muốn ngăn Bác dừng lại để nhìn nhận lại vấn đề : Ai cũng có lúc sơ sót

Nếu TL viết theo cách ấy ... thì bạn đọc sẽ nhìn theo cách ấy
Nếu TL viết rằng : Bài này viết từ trong nước . Bác Thuỷ Canh dẫn về là để cảnh báo mọi người phải cảnh giác với một bộ phận trong nước .( Thực tế là điều này đã xảy ra ở cuộc biểu tình chống TQ vừa qua .) . Thì người đọc sẽ nhìn theo hướng này .

Sơ sót của Bác Thuỷ Canh là dẫn bài mà không nói gì .

- Nếu cứ nhằm vào sơ sót của nhau thì TL e là sẽ lộn tùng phèo . Cuộc chiến sẽ không có hồi kết và cũng chẳng ai được vui . Và cái quan trọng là : Được gì ? Mất gì ? TL nghĩ là mất nhiều hơn là được .

* Vẫn biết bát nước đổ đi thì khó thể hốt lại đầy . TL chỉ mong là có thể cùng nhau khắc phục.

TL đã nói hết ý . Còn Duyên tụ hay tan ... thì đúng là tuỳ Duyên

******************
 
Bài viết khá là dài, khá là nhiều ý để nhớ......để phản biện :v
Theo em bài viết mới chỉ thể hiện được 1 vài khía cạnh của người tiếp cận.
Do quá nhiều cái mà tác giả gọi là "giải mã" nên em xin phản biện 1 số vấn đề mà em đựơc tiếp cận có gì sai sót mong được các bác, tiền bối đóng góp sửa và xây dựng thêm :D.

1. Do cũng có 1 năm làm tiều phu thực tập sinh bên đó nên em xin trình bày luôn ko phải là thực tập sinh việt nam sang đó là 100% cày kiếm tiền gửi về, em xin lấy đại diện theo đánh giá của bản thân tại 1 trung tâm bên đó như sau: 1. khoảng 80% là chỉ biết làm kiếm tiền gửi về; 2. 10-15% là vừa học vừa làm về có cơ hội thì phát huy ko có thì để đấy ...; 3. dưới 5% thực sự làm và học kỹ thuật tiên tiến của họ về xây nhưng ko biết có dựng lên được gì ko.
Vâng, như các bác thấy rằng thực tập sinh giống như 1 tầng lớp trung gian có thể là chỉ lao động, vừa lao động vừa học và mang về được cái gì thì mang (tiền, kinh nghiệm, kiến thức ...tùy người). Vậy chúng ta sẽ trông chờ vào 20% vừa học vừa làm có thể phát huy được hay ko ??? Giờ em xin đặt lại 1 câu hỏi: chúng ta sang bên đó học kỹ thuật của họ, cách họ làm..... vậy chúng ta có những gì để có thể áp dụng được? với 100triệu dân có khoảng hơn 70 triệu làm nông nghiệp Có bao nhiêu trại có đủ nguồn lực để đầu tư công nghệ cao? và quan trọng là khi đã đầu tư rồi đầu ra sản phẩm công nghệ đó bán được cho ai giá cả thế nào. em xin lấy 1 ví dụ:
- 1kg chuối tiêu bên đó là 40k (loại nhỏ) loại to gấp rưỡi đến gấp đôi. quan trọng là hàng được bao tiêu hết (kibuzz). hộ cá nhân thì có hệ thống cửa hàng phân phối rồi (giống cửa hàng tạp hóa - siêu thị mini). Còn ở việt nam ta thử hỏi giá 10k mà tiêu thụ hết thì mừng ú ụ rồi :) tất nhiên giá nó cao thì đồng thời chi phí nó cũng cao tương ứng => mấu chốt của vấn đề là cái thằng tiêu thụ ở việt nam rừng vàng biển bạc CUNG > CẦU. mà muốn thay đổi thì cần cả 1 hệ thống quản lý thay đổi anh nông dân thực tập sinh về vẫn bó tay dài dài....

mục 2. đó là bác tác giả bảo dân thái toàn cử các “tình báo” nông nghiệp. Họ là các kỹ sư, con cái các chủ nông trại Thái, những người nuôi chí làm giàu bằng nghề nông và sử dụng thời gian lao động tại Israel như một hình thức “khổ nhục kế”, âm thầm tìm hiểu quy trình sản xuất, kinh doanh, quản lý… để tìm đường khởi nghiệp làm giàu cho mình và cho nước Thái sau này. Em nghe thấy buồn cười quá
vậy em xin thưa rằng may thay họ cũng chỉ nằm trong số 20% mà thực tập sinh việt nam vừa học vừa làm thực sự là cùng. Bởi như sau, về trình độ khi giao lưu chúng em ko thấy họ vượt trội lắm về tư duy so với thực tập sinh việt nam, may thay ko bị việt nam lừa cho thì thôi :)) Tất nhiên ở đâu cũng có người hơn người kém ko thể phủ nhận thực tập sinh học có những người giỏi nhưng việt nam ta cũng đâu có thiếu?
Tuy nhiên khi về nước 20% đối tượng này lại có điều kiện phát huy hơn thực tập sinh (TTS) việt nam. tại sao ư? các bác hãy nhìn vào nền nông nghiệp và chế độ chính sách của thái lan là sẽ hiểu.

Sản phẩm của họ tuân theo tiêu chuẩn quốc tế với sự hợp tác của 4 nhà ( em rất nể khoản này - nông dân là thầy giáo... :v ) có sự hỗ trợ nhà nước + AMERICA + con em do thái trước kia từng ở khắp ...5 châu nên dễ dàng xuất khẩu sang châu âu, mỹ. còn về tiêu thụ nội địa thì hệ thống phân phối rộng khắp, giao thông thuận lợi, nền kinh tế phát triển..-> tiêu thụ sản phẩm dễ dàng ko có tình trạng được mùa mất giá như việt nam, Có thể em chưa tiếp cận với bộ phận quản lý cao hơn về việc quản lý vùng nguyên liệu.... nên ko có thêm ý kiến

2. Còn về chuyện đức tin, (i) Dân tộc Do Thái, (ii) Đạo Do Thái, (iii) văn hóa Do Thái, và (iv) Đất nước Do Thái.
em xin nói về "Đạo Do Thái" nó làm nên dân tộc, văn hóa, đất nước do thái. Phải công nhận là họ rất sùng đạo như thể là 1 đức tin. Có thể đem so sánh với Việt Nam ta la theo đạo phật, thờ cúng tổ tiên.
Nói về mặt tích cực thì khi chúng ta có đức tin (lòng tin) thì đã thành công hơn 50% rồi đó là để nói về sức mạnh tâm lý. quay trở lại với đạo do thái được tôn sùng 1 cách tuyệt đối như tác giả đã nói lắm lúc cầm quyển sách niệm niệm giữa trời nắng chang chang thì phải nói là thành CUỒNG Đạo :v nhưng chính vì cái ccuồng đó mà đến lúc lao động học cũng cuồng (cuồng cả lao động chân tay lẫn trý óc) luôn => năng suất tăng là phải :D
1 VD vui. có 1 cuộc nói chuyện với 1 tay sùng đạo (Đạo hồi) tầm tháng 8 thì phải họ sẽ mỗi ngày chỉ ăn 1 bữa tối (tức là cứ trời tối mới được ăn, trời sáng ko được ăn) mà vẫn lao động như thường :v anh ta bảo là chúng tao ko cần ăn vì đã có chúa trời giúp sức,nói xong anh đưa tay lên bảo khỏe nhưng mặt thì đờ ra nhìn xỉu hết cơ bọn em cười đau hết cả bụng :)) vì lúc đó là 2h chiều ;) . thời gian đầu thực hiện tháng ăn kiên này thì kiêng tất ko đựoc uống nước hút thuốc... nói chung là ko được bỏ cái j vào miệng cả (trừ phụ nữ mang thai hoặc đang có chu kỳ...) nhưng chỉ được mấy ngày đầu nhưng sau đó vài hôm thì phá lệ uống nước. sau đó vài hôm thấy nhai cao su :v => ko có gì là cuồng tuyệt đối được cả.
VD2. 1 đứa bé được sinh ra nếu cho ở với sói hay với khỉ thì khi lớn cũng ko thể sống cùng xã hội hiện đại được => cái gen gien mà tác giả nói đến cũng chỉ đóng góp 1 phần nào đó vào sự thông minh của con người thôi. theo ý kiến cá nhân em thì môi trường, cách đào tạo là nhân tố chính quyết định!

3. Về việc văn hóa do thái như tác giả bảo hay ho... em ko tiện lên đọc lại. thì đất nước học là đất nước phát triển - dân ta có câu "phú quý sinh lễ nghĩa" quả ko sai. có tiền có tư bản thì họ thích làm gì chả được. dân ta còn nghèo nên ko đú đâu, nếu thích ăn uống... phong cách kiểu đó vậy cứ bơm cho dân vài trăm tỷ usd mỗi năm coi xem dân ta có bằng họ ko :v.
tiện đây em xin phân tích chỗ mất nước nghìn năm sau lấy lại bằng cách hạ gục 5 nước kia. thì ta nên nhớ rằng trước kia israel là con mắt thần của mỹ ở trung đông nếu ko có sự hậu thuẫn của mỹ về mọi mặt thì thử hỏi đất nước có được như vậy ko? Chúng ta cũng phải tự hào là đã đánh thắng Mỹ, pháp, phát xít nhật thì lúc đó nếu ko có sự hâu thuẫn của đất nước liên xô anh em (trung quốc xưa tàu khựa ngày nay) liệu có làm được ko?

Topic còn quá nhiều điểm để cùng thảo luận nhưng thời gian ko cho phép với bố cục abc em xin dừng ở đây ạ :D
Chỉ xin kết luận 1 câu cuối. Là muốn phát triển thì cần dựa vào thiên thời địa lợi nhân hòa, tận dùng tình thế bên ngoài nhưng vẫn phải phát huy nội lực là chính, nó đã là quy luật! trừ khi may mắn việt nam ta có đựoc vài núi vàng hoặc mỏ dầu khoan mãi không hết =)) than thì buồn thay :v Đừng đòi hỏi quá nhiều ở thế hệ trẻ mà thế hệ đi trước cũng hãy thay đổi và cả một hệ thống nhà nước to đùng để đưa nông nghiệp nói riêng, mọi ngành nói chung đi lên.

Thân ái!
Trần Đông - 1990.
 

Ba mươi năm trước, tui nhận vào một nhăn-công. Anh ấy là thạc-sĩ tu-nghiệp. Vì muốn giúp, tui đồng ý cho làm 4 ngày, một ngày đi lên đại-học. Tui cũng cho phép dùng máy photocopy của tui để có bài báo-cáo. Anh nói, học về cũng như không, có ứng-dụng đâu mà học?
 
không nhất thiết phải giải mã hay phân tích làm gì cả . nếu công nhận là chỉ số thông minh của dân do thái có cao hơn các chủng dân khác vẩn sẽ không làm nên chuyện gì khi họ không có lòng tự tôn dân tộc . không có đức tin . không có nền tản giáo dục thật tốt . các yếu tố đó hội tụ phát triển thành nhân tài . nhân tài chính là nguyên khí của quốc gia.
du học sinh nhật trong những năm tháng khó khăn họ ra nước ngoài du học thu thập tiến bộ của trời tây thậm chí cả ăn cắp . họ làm bằng sự uất ức sự ganh tị tất cả điều đó xuất phát từ ý chí tự cường và lòng tự tôn dân tộc . họ có điều đó là nhờ vào 1 nền tản giáo dục thật tốt . 1 đức tin thật vửng.
 
Trong bài viết này, tôi quan tâm và thích nhất đoạn này:

Israel: Cường quốc nông nghiệp giữa sa mạc

Do điều kiện tự nhiên, sa mạc chiếm đến 60% tổng số 20.000 km2 diện tích, nên đất đai canh tác còn lại của Israel rất ít và chủ yếu nằm ở khu vực đồng bằng ven biển. Tuy nhiên, điều này không ngăn cản Israel trở thành nước có nền nông nghiệp phát triển nhất thế giới, chủ yếu nhờ đi tiên phong trong nghiên cứu khoa học và ứng dụng các thành tựu khoa học-công nghệ vào sản xuất nông nghiệp.
Đi thăm các cơ sở nông nghiệp Israel mới thấy trình độ công nghiệp hóa nông nghiệp và khả năng lập kế hoạch sản xuất, dự báo thị trường của Israel đạt đến trình độ rất cao. Có lẽ dùng từ “nông dân” đối với họ là không chính xác, mà là công nhân nông nghiệp. Ngoài ra, đó là sự kết hợp chặt chẽ giữa 4 “Nhà”, gồm: (i) Nhà nước; (ii) Nhà khoa học; (iii) Nhà buôn; và (iv) Nhà nông. “Nhà nông” ở đây cần được hiểu là người bỏ vốn đầu tư, tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào quá trình sản xuất nông nghiệp.
Đất đai ở Israel được nhà nước quản lý rất chặt chẽ. Nhà ở của dân thì xây trên các triền núi đá, khó cải tạo thành đất nông nghiệp, còn đất đồng bằng tuyệt đối sử dụng cho trồng trọt và canh tác. Thậm chí đất hoang mạc, nhưng tương đối bằng phẳng có thể cải tạo thành đất nông nghiệp thì cũng không được làm nhà ở trên đó.
Israel đi tiên phong trên thế giới trong lĩnh vực cải tạo đất hoang mạc, sa mạc thành đất nông nghiệp trù phú. Quy trình như sau (để đơn giản hóa): (i) San bằng đất hoang mạc, sỏi đá; (ii) Phủ lên đó 1 lớp đất dày, ít nhất là 1/2 m; (iii) Trồng các loại cỏ hoặc cây dại không cần tưới nước khoảng từ 3-5 năm, để biến đất chết thành đất màu; (iv) Sau quá trình cải tạo này, đất hoang mạc biến thành đất nông nghiệp và được giao cho các chủ đất (nhà đầu tư) để tiến hành sản xuất.
Về mặt sinh thái, bước vào thế kỷ 21, Israel là nước duy nhất trên thế giới đã mở rộng được diện tích rừng và quỹ đất nông nghiệp.
Tuy là nước nhỏ, có 8 triệu dân, nhưng Israel lại có hệ thống đường dẫn nước tái sử dụng dài nhất thế giới. Toàn bộ lượng nước thải được dẫn trở lại các trung tâm xử lý, lọc lại, sau đó được dẫn ngược trở lại theo các đường ống để sử dụng tưới tiêu cho nông nghiệp.
Hệ thống ống dẫn nước tưới được dẫn đến từng khoảnh vườn, tới từng cây và việc tưới được vi tính hóa qua hệ thống điều khiển ở trung tâm về thời gian tưới, lượng nước tưới sao cho phù hợp nhất với thời tiết, độ sinh trưởng của từng loại cây. Cũng từ trung tâm, các kỹ sư nông nghiệp sử dụng luôn đường ống dẫn nước để dẫn phân bón hoặc chất dinh dưỡng cần cho cây theo định kỳ.
Tại đầu từng khoảnh vườn, có bảng ghi chi tiết vườn trồng cây gì, giống nào, từ khi nào… Nhìn chung các cây trồng (cam, bưỏi, cà chua, ớt.. ) là những loại cây trồng có năng suất cao, đã được lai ghép cho phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng Israel là chịu nắng, chịu khô, chịu sâu bệnh nhưng lại cho năng suất cao và chất lượng quả, trái cây tốt.
Mỗi cây cam hoặc bưởi trông thấp như vậy nhưng lại rất sai quả và có thể cho đến vài tạ quả/cây khi đến mùa thu hoạch. Với lợi thế là trồng cây quả nhiệt đới có chất lượng cao, ổn định, hệ thống kiểm định chất lượng chặt chẽ, ở ngay sát châu Âu và cung cấp những hoa quả nhiệt đới “trái vụ” khi châu Âu bước vào mùa đông nên hoa quả Israel có rất nhiều lợi thế về giá và thị trường.
Đây có lẽ chính là mô hình đầu tư, sản xuất, phát triển và kinh doanh nông nghiệp mà một nước nông nghiệp như chúng ta cần học hỏi và để làm giàu tại ngay chính mảnh đất quê hương mình. Nếu so với Israel, có lẽ đất đai miền Trung Việt Nam còn màu mỡ và có các điều kiện tự nhiên để sản xuất tốt hơn nhiều. Ngay một nước có nền nông nghiệp phát triển nhất ở khu vực như Thái Lan cũng có hàng ngàn thực tập sinh lao động trong các trang trại, mà thực chất là lao động xuất khẩu.
Có điều ít người để ý là trong khi thực tập sinh Việt Nam chăm chỉ làm lụng, tiết kiệm từng đồng gửi về cho gia đình, vợ con, thì khá nhiều “lao động” Thái là các “tình báo” nông nghiệp. Họ là các kỹ sư, con cái các chủ nông trại Thái, những người nuôi chí làm giàu bằng nghề nông và sử dụng thời gian lao động tại Israel như một hình thức “khổ nhục kế”, âm thầm tìm hiểu quy trình sản xuất, kinh doanh, quản lý… để tìm đường khởi nghiệp làm giàu cho mình và cho nước Thái sau này.
 
2. Phải chăng người Do Thái có “gien” thông minh hơn người và “gien” này được lưu giữ và truyền từ đời này qua đời khác?

Câu chuyện này đã được nhiều nhà khoa học âm thầm nghiên cứu để tìm câu trả lời thấu đáo. Tuy nhiên, người Do Thái lại “bác bỏ” điều nay, cho rằng sở dĩ người Do Thái thành công là do điều kiện, hoàn cảnh bắt buộc họ phải nỗ lực, sáng tạo và vươn lên không ngừng để thích nghi với hoàn cảnh. Vậy thực, hư câu chuyện này ra sao?

....

3. Nếu như có “gien” Do Thái như vậy thì “gien” này được “lưu giữ” và phát triển ra sao từ thời “Cụ Tổ” của người Do Thái đến nay và trong hoàn cảnh họ bị ly tán, tha phương cầu thực?

...
Để dễ hình dung, nếu có một nước khác có đặc trưng tương tự như Israel, chẳng hạn Trung Quốc, thì đặc trưng nước đó sẽ là: Người Trung Quốc, nước Trung Quốc, Đạo Trung Quốc. Nhưng trên thực tế ta thấy: người Hán, nước Trung Quốc và Đạo Khổng.


Cùng là người Tàu, mà một là Tàu Khịa, rất bựa, còn một là Tàu... Tàu Hông-kông!
Thân.
 
Trong bài viết này, tôi quan tâm và thích nhất đoạn này:

Nếu so với Israel, có lẽ đất đai miền Trung Việt Nam còn màu mỡ và có các điều kiện tự nhiên để sản xuất tốt hơn nhiều.
miền trung chờ đến bao giờ ??? chúng ta học được gì ở israel ứng dụng được gì ?
 
Ở chỗ tôi, những hộ có điều kiện đang thực hiện mô hình tưới nhỏ giot tiết kiệm nước đó bác.
chỉ mới tưới nhỏ giọt thôi mà phãi là những hộ có điều kiện rồi ! rỏ ràng nông dân mình còn khổ quá . khổ về vật chất lẩn cả tinh thần chúng ta quá thiếu nhửng cán bộ kỷ thuật tâm quyết với nông nghiệp nước nhà . đã có 1 tập thể hay cá nhân nhà khoa học nào đi sâu đi sát với nông dân về mô hình này chưa ? đã có ai gào to lên là nó rất có lợi . nó rất tuyệt vời . và nên làm cách nào tiết kiệm hiệu quả cho nông dân mình ứng dụng không ?
ở chổ tôi chả có cán bộ kỷ thuật nào dại cả hàng chục kiểu tưới nhỏ giọt đơn giãn hiệu quả đang hoạt động.
nông dân tự mài mò học hỏi lẩn nhau mà làm . nếu có dịp tôi mời bạn tham quan mô hình tưới nhỏ giọt của 1 ông cụ hơn 80 tuổi đang tưới hơn 2 ht tiêu .
trong cái buồn vì lạc hậu hơn người ta nhưng củng có cái vui là cái khó không bó được cái khôn của người việt .
 
Trước đây, 1977-78, tui trồng đất cát pha thịt, 1800m2. Tui mướn thêm một người tưới. Người nầy tưới 350 đôi (20 lít x 20 lít) một ngày, và tui 150 đôi/ngày. Người kia tưới xong là nghỉ, còn tui săn-sóc đám sắn củ, bận cả ngày. Ở VN còn tưới cách nầy không?
Ở Úc, tui mặc tình trồng theo sức, tùy theo săn-sóc và thu-hoạch. Việc tưới tiêu chỉ cực bắt ống nước, lúc đầu, sau đó chỉ cần vane đóng/mở thôi.
Chính-quyền muốn tiết-kiệm nước và giảm nhân-lực cho dân, bằng cách điểu-khiển vận-hành qua điện-thoại cầm tay, không cần phải ra ngoài đồng để vặn vòi tưới nữa. Thậm-chí, đi chơi hay về VN, vẫn tưới theo ý như thường. Các thiết-bị nầy được tặng cho miễn-phí. Tui trồng thủy-canh, nên trả lại, bởi không cần.
Tui chỉ muốn góp ý, xin hiểu dùm.
Trở lại, năm 1945 tui chào đời. Ba năm sau nước Do-thái chào đời.
Đến năm 1965, tui 20 tuổi, đọc một bài về người Do-thái trồng trọt trên đất khô cằn. Vào thời-kỳ đó, dùng nhựa hay plastic trong nông-nghiệp thì là ảo-tưởng. Vậy là dân Do-thái lấy giấy, tẩm hầu hắc, đậy gốc cây, tưới tiết-kiệm!
Tui mê cách nầy quá!
 
Last edited:
Trước đây, 1977-78, tui trồng đất cát pha thịt, 1800m2. Tui mướn thêm một người tưới. Người nầy tưới 350 đôi (20 lít x 20 lít) một ngày, và tui 150 đôi/ngày. Người kia tưới xong là nghỉ, còn tui săn-sóc đám sắn củ, bận cả ngày. Ở VN còn tưới cách nầy không?
Ở Úc, tui mặc tình trồng theo sức, tùy theo săn-sóc và thu-hoạch. Việc tưới tiêu chỉ cực bắt ống nước, lúc đầu, sau đó chỉ cần vane đóng/mở thôi.
Chính-quyền muốn tiết-kiệm nước và giảm nhân-lực cho dân, bằng cách điểu-khiển vận-hành qua điện-thoại cầm tay, không cần phải ra ngoài đồng để vặn vòi tưới nữa. Thậm-chí, đi chơi hay về VN, vẫn tưới theo ý như thường. Các thiết-bị nầy được tặng cho miễn-phí. Tui trồng thủy-canh, nên trả lại, bởi không cần.
Tui chỉ muốn góp ý, xin hiểu dùm.
Trở lại, năm 1945 tui chào đời. Ba năm sau nước Do-thái chào đời.
Đến năm 1965, tui 20 tuổi, đọc một bài về người Do-thái trồng trọt trên đất khô cằn. Vào thời-kỳ đó, dùng nhựa hay plastic trong nông-nghiệp thì là ảo-tưởng. Vậy là dân Do-thái lấy giấy, tẩm hầu hắc, đậy gốc cây, tưới tiết-kiệm!
Tui mê cách nầy quá!
bây giờ việt nam đã có tiến bộ hơn rồi bác ạ . kiểu tưới từng thùng từng đôi nước không còn nữa . nếu còn là ở các hộ quá nghèo . điện đã về nhiều vùng của nông thôn . các công trình thủy lợi đã được làm . nhưng dùng điện vào nông nghiệp thế nào cho hiệu quả ? thủy lợi đã có nhưng tưới thế nào dùng nước ra sao ? nông dân tự suy nghĩ tự phát mà làm thôi chưa kể là nó lần lượt hư hỏng theo thời gian chẳng ai thèm dòm tới vì lợi ích thiết thực của nó không được khai thác triệt để . ai dại đâu mà làm ??? cán bộ kỷ thuật mình bèo lắm .
nói về cách tưới của israel vào những thập niên 60-70 không ít nhà khoa học xem thường nó . họ cho rằng israel làm thế vì đất đai họ khô cằn . nhưng khi các vùng đất mầu mở bắt đầu xuốn cấp . khí hậu ngày càng khắc nghiệt . người ta mới giật mình nhập cuộc . vẩn chưa muộn chỉ có việt nam là muộn thôi . 1 miền trung đầy nắng và gió . tại sau không lấy nắng lấy gió làm điện năng . để sử dụng cho các trạm tưới tiêu . vấn đề tự động hóa hoàn toàn nằm trong tay các nhà khoa học việt nam trước năm 1975. việc dùng sóng điện thoại kích hoạt máy bơm . hoạc dùng các cảm biến lấy thông số độ ẩm của đất của không khí để khởi động máy bơm là những việc rất đơn giãn . tưới nhỏ giọt không chỉ tiết kiệm nước mà còn giúp cho đất luôn ẩm nếu có sự can thiệp của các hệ thống điện tử thì độ ẩm không khí và đất được kiểm soát dể dàng . tôi khẳng định là các vấn đề kỷ thuật này hoàn toàn nằm trong tay các nhà khoa học việt nam . dạng cổ lổ sỉ như tôi vẩn làm được dể dàng thôi.
thật buồn cười khi các thế hệ trẻ việt nam đang thi đấu robot với thiên hạ họ có đoạt giải đấy . họ đứng trên 1 vùng đất lạc hậu mà suy nghĩ tự động hóa cho robot đi thi lấy giãi . nông dân cắm đầu tưới . cứ tưới đi còn lâu mới tự động hóa được . các modun các con chíp lắp vào robot củng chỉ là hàng nhập từ trung quốc từ mã lai ... lắp ghép thi đấu như những con bò nhay lại chứ chưa phải là đột phá phát minh gì đâu .
 
thật buồn cười khi các thế hệ trẻ việt nam đang thi đấu robot với thiên hạ họ có đoạt giải đấy . họ đứng trên 1 vùng đất lạc hậu mà suy nghĩ tự động hóa cho robot đi thi lấy giãi . nông dân cắm đầu tưới . cứ tưới đi còn lâu mới tự động hóa được . các modun các con chíp lắp vào robot củng chỉ là hàng nhập từ trung quốc từ mã lai ... lắp ghép thi đấu như những con bò nhay lại chứ chưa phải là đột phá phát minh gì đâu .
Hay lắm bạn, cái ta thiếu là sự định hướng cụ thể của nhà nước về nông nghiệp nông thôn.
 
Thân chào
Hiện em rất cần tìm hiểu, làm những mô hình trang trại kiểu Israel này, các bác trong diễn đàn nào biết, hoặc đang làm, hoặc đang có kế hoạch làm có thể cho em cơ hội tham quan, học hỏi, để cùng làm nông nghiệp cao.
Cảm ơn.
HCM
 
bây giờ việt nam đã có tiến bộ hơn rồi bác ạ . kiểu tưới từng thùng từng đôi nước không còn nữa . nếu còn là ở các hộ quá nghèo . điện đã về nhiều vùng của nông thôn . các công trình thủy lợi đã được làm . nhưng dùng điện vào nông nghiệp thế nào cho hiệu quả ? thủy lợi đã có nhưng tưới thế nào dùng nước ra sao ? nông dân tự suy nghĩ tự phát mà làm thôi chưa kể là nó lần lượt hư hỏng theo thời gian chẳng ai thèm dòm tới vì lợi ích thiết thực của nó không được khai thác triệt để . ai dại đâu mà làm ??? cán bộ kỷ thuật mình bèo lắm .
nói về cách tưới của israel vào những thập niên 60-70 không ít nhà khoa học xem thường nó . họ cho rằng israel làm thế vì đất đai họ khô cằn . nhưng khi các vùng đất mầu mở bắt đầu xuốn cấp . khí hậu ngày càng khắc nghiệt . người ta mới giật mình nhập cuộc . vẩn chưa muộn chỉ có việt nam là muộn thôi . 1 miền trung đầy nắng và gió . tại sau không lấy nắng lấy gió làm điện năng . để sử dụng cho các trạm tưới tiêu . vấn đề tự động hóa hoàn toàn nằm trong tay các nhà khoa học việt nam trước năm 1975
Đúng đó bác, dùng sức điện, sức để thay thế sức người. Nhưng ở Úc, nếu không gần nguồn điện, thì cũng cần máy nổ để bơm.
Còn ở VN, bà con tưới bằng cách nào bác.
Thân.
 


Back
Top