Các loài lưỠng thê thưỜng gẶp Ở ÐBSCL

  • Thread starter Guest
  • Ngày gửi
G

Guest

Guest
* Ếch giun (Ichthyophis glutinosus)

(Ếch giun=ếch trun=rắn trun đĩa)


Ếch giun là loài lưỡng thê không chân tương đối hiếm gặp ở nước ta. Cơ thể hình giun dài khoảng 0,2 - 0,3 m. Chúng khác giun ở chỗ đầu có hai mắt như hai chấm đen. Ðầu nhỏ hơi dẹp, mõm tương đối nhọn. Lưng ếch giun có màu xám hay nâu sậm, bụng màu nhạt hơn. Dọc hai bên thân có hai sọc màu vàng lợt chạy từ góc hàm đến góc đuôi.

Ếch giun sống chui luồn dưới đất nên có mắt, màng nhĩ bị tiêu giảm. Hang của chúng thường gặp ở những nơi đất xốp, sâu từ 0,2 -0,3m gần ao hồ. Ếch giun có hiện tượng thụ tinh trong, thức ăn của chúng là giun đất.
>
Chúng đẻ trứng ở gần chỗ có nước. Số lượng khoảng 20 trứng được nối với nhau bằng chất nhầy và được cá thể cái quấn lấy để bảo vệ trứng khỏi bị khô mà người ta thường gọi là hiện tượng ấp trứng.

Ếch giun có giá trị khoa học, đề nghị cấm săn bắt và tổ chức nuôi.

Ấu trùng phát triển ngay còn khi ở trong trứng. Ở mỗi bên cổ của ấu trùng đã có một lỗ thở và một chùm ba đôi mang ngoài. Khi ra khỏi trứng thì cả màng ngoài lẫn màng trong đều bị tiêu biến. Âúu trùng thở bằng phổi, khi đó chúng rời khỏi cá thể mẹ bò xuống nước và sống vài tháng trong nước cho đến giai đoạn cuối cùng của sự biến thái.

Ếch đồng (Rana tigrina rugulosa)



Ðôi khi gọi là ếch ruộng, kích thước trung bình, chiều dài thân có khi đến 120 cm.

Da trần, màu vàng lợt hay xanh ôliu, bụng trắng, hai bên hông màu vàng. Trên lưng có nhiều nếp da dài.

Ðầu rộng, mõm tròn hơi nhọn. Màng nhĩ từ 2/3 đến 1/1 so với kích thước mắt.

Chi sau có khớp cổ chày chạm đến vai ở gần mũi, đầu ngón tù, màng da nối ngón chân tỷ lệ 1/1.

Ếch đồng thường sống ở bờ ruộng, bờ ao, bờ sông. Thức ăn chủ yếu là châu chấu, cào cào, cánh cứng, chuồn chuồn, kiến, mối, dế, cua, giun đất đôi khi ăn cả nhái nhỏ. Hoạt động chủ yếu vào hoàng hôn và ban đêm.

Con đực có túi thanh âm nên phát ra tiếng "ẹp, ẹp - ộp, ộp" vang rất xa.

Ðẻ trứng vào mùa mưa, từ tháng 3 đến tháng 7, từ 2 - 3 lứa trong năm.Có hiện tượng trú khô.

Ếch đồng là con vật có ích và góp phần tiêu diệt các côn trùng gây hại, một số nước đã thử nghiệm nuôi ếch trong các ruộng lúa thì năng suất tăng lên rõ rệt. Ếch là món ăn ưa thích lâu đời của nhân dân ta và nhiều nước trên thế giới.

Kỹ thuật nuôi ếch đồng

Ếch đồng là loại thực phẩm cung cấp nhiều chất dinh dưỡng được nhiều người ưa thích. Hiện nay số lượng ếch đang giảm súc do đó việc tiến hành nuôi ếch rất cần thiết và có hiệu quả kinh tế. Ếch đồng nếu được nuôi trong các điều kiện môi trường thích hợp và thức ăn đầy đủ sẽ phát triển rất nhanh.

Khởi đầu việc nuôi ếch người ta thường nuôi ếch thịt rồi tuyển chọn những con ếch đực và cái tốt nhất để làm giống nuôi vỗ năm sau cho đẻ.

Nuôi ếch thịt

Ðịa điểm: có thể nuôi ếch thịt trong vườn hoặc ao,diện tích từ 50 - 70m2.

Nơi nuôi ếch cần yên tĩnh, đủ ánh sáng, đất thịt, pH: 7-8. Nguồn nước sạch và chủ động trong việc cấp thoát nước, có thể nuôi trong vườn hoặc ao.

Vườn nuôi ếch: có thể là vườn trồng cây, hoa hoặc rau đều kết hợp nuôi được ếch. Trong vườn có ít nhất 10 - 20% diện tích phủ nước (ao hoặc mương) độ sâu nước từ 0,3 - 1m.

Bờ ao, bờ, mương trồng cây lấy bóng mát, giữ độ ẩm đất làm nơi ếch cư trú. Dưới ao, mương thả bèo tây phủ 1/2 diện tích mặt nước để làm sạch nước và chống nóng.

Ao nuôi ếch: phù hợp hơn, nước ao sâu từ 0,6 - 1,2m, quanh ao có bờ trồng cây, dưới ao có thể thả bèo tây hoặc rau muống phủ 1/2 diện tích ao. Nếu bờ ao hẹp có thể dùng các tấm ván mỏng hoặc các tấm phên nứa có buộc phao nổi thả xuống nước làm sàn cho ếch ăn. Có thể kết hợp nuôi cá trê lai trong ao để tận dụng thức ăn thừa và chất thải của ếch.

Chung quanh địa điểm nuôi ếch đồng phải có tường gạch bao quanh. Tường cao 1,2m trở lên, mặt trong tường phải trát nhẵn để hạn chế ếch bị xây xát khi ếch nhảy chạm vào tường. Người ta có thể đóng cọc rào bằng lưới sắt mắt cáo hoặc lưới nilon chung quanh thay cho việc xây tường gạch. Dưới chân hàng rào phải được gia cố chắc chắn.

Thả giống:

Nên mua ếch giống từ các trại nuôi ếch vì đã được thuần dưỡng, quen ăn các mồi tĩnh được chế biến. Ếch được thả phải có kích thước đồng đều, khoẻ mạnh, không bị xây xát, ếch giống thường có cỡ khoảng 100 - 300 con/kg.

Mật độ thả từ 60-100con/m2.

Thức ăn: là bột ngô hoặc bột gạo nấu chín để nguội rồi trộn với cá tạp, cua, ốc xay nhuyễn tỷ lệ 20%. Thức ăn được bốc thành từng nhúm đặt lên tấm nilon hoặc tấm gỗ ở các vị trí cố định, gần nơi ếch lên ăn.

Lượng thức ăn khoảng 8 - 10% trọng lượng ếch, cho ăn ngày 2 lần vào sáng sớm và chiều mát. Không để tồn động thức ăn ôi thiu.

Thời gian nuôi ếch thịt khoảng từ 3 - 4 tháng, lúc đi ếch đạt trọng lượng từ 80 -100gram/con. Nếu nuôi tốt thì chỉ sau hai tháng rưởi đã đạt trọng lượng trên.

Quản lý và bảo vệ:

Ếch là đối tượng bị nhiều sinh vật khác sát hại như mèo, chuột, rắn, rái cá, gà, vịt, kiến... Ở giai đoạn nòng nọc cua, cá cũng có thể tấn công (phải diệt kiến, chuột... ).

-Trong khi nuôi phải theo dõi trạng thái hoạt động của ếch để phát hiện các bệnh và nguồn nước nuôi phải sạch.

-Kiểm tra lượng thức ăn hàng ngày, nếu ếch ăn hết thì tăng lượng thức ăn lên, ngược lại nếu thức ăn còn dư thì giảm lượng thức ăn đồng thời phải tìm nguyên nhân làm ếch bị bệnh hoặc do thức ăn không phù hợp.

* Bù tọt (Rana cancrivora)



Hình dạng gần giống ếch đồng, nhưng nhỏ hơn chiều dài thân khoảng 80-90cm.

Da trần, đôi khi có một đường rộng màu đỏ vàng chạy giữa lưng từ đầu đến hậu môn, lưng màu xám có điểm nâu, bụng trắng, trên lưng có ít nếp da dọc hoặc không có. Ðầu thường dài hơi rộng, mõm hơi nhọn. Màng nhĩ 1/2 đến 7/8 so với kích thước mắt, luỡi chẻ hai.

Chi sau có khớp cổ chày đến mắt, hay giữa mắt và lổ mũi. Màng da nối ngón chân ở chi sau 3/4. Ðẻ trứng vào mùa mưa. Bù tọt thường sống ở ruộng, bờ ao, số lượng nhiều ở những nơi có nước hơi lợ. Thức ăn là những loài côn trùng gây hại nên có lợi cho nông nghiệp.

Nhái (Rana limnocharis)

Nhiều nơi còn gọi là ngóe hay nhái cơm, rất phổ biến. Kích thước trung bình, chiều dài thân khoảng 5cm.

Nhái có lưng màu xám đất, đôi khi có màu xanh, xanh nhạt pha nhiều vệt xám đen, nếp gấp da ở lưng ít. Thường có lằn hình chữ V từ mắt này sang mắt khác, đôi khi có đường rộng màu vàng dợt hay màu đỏ gạch chạy giữa lưng từ mõm đến hậu môn. Ðầu hơi dài và hẹp, mõm nhọn. Miệng rộng lưỡi chẻ đôi. Chi trước không có màng. Chi sau có màng 1/2, khớp xương đùi dài đến màng nhĩ.

Nhái sống mọi nơi: ngoài đồng, trong vườn, bụi cỏ, bờ ao. Chúng hoạt động từ cuối tháng 4 đến tháng 12. Thời gian đẻ trứng rộ nhất từ tháng 4 đến tháng 7. Chúng ghép đôi ở bất kỳ các vũng nước nào ở ven đường, bãi đất hoang hay quanh các bờ ruộng. Thời gian ghép đôi mạnh nhất sau những trận mưa, vào lúc sẩm tối kéo dài đến gần sáng.

Nhái đẻ trứng trong nước, trứng xếp khít nhau thành từng đám hình tròn hay hình bầu dục.

Thức ăn của nhái gồm côn trùng, kiến, nhện, giun đất, ốc nhỏ.

Nhái là loài có số lượng đông đảo và phổ biến nhất nên đóng vai trò quan trọng trong việc tiêu diệt côn trùng có hại. Nhái cũng là nguồn thực phẩm cung cấp đạm cho người và gia cầm.

* Chàng hiu (Rana macrodactyla)

Ðây là loài có kích thước nhỏ chiều dài từ 4 -5 cm.

Da trơn, thường lưng có màu vàng nhạt hay đôi khi xanh nhạt. Mỗi bên lưng có một vạch màu trắng đục hay màu đất nằm trên nếp da cạnh lưng chạy từ sau mắt đến đùi. Giữa lưng cũng có một đường như vậy chạy từ mõm đến lỗ huyệt.

Ðầu hơi lõm xuống, mõm dài và nhọn. Màng nhĩ phân biệt từ 2/3-1/1 đường kính mắt.

Miệng rộng, lưỡi chẻ hai. Chi trước có ngón dài và ốm đầu ngón hơi phình ra. Chi sau rất dài, đầu ngón hơi phình ra, có màng nối 1/2, khớp có chày đi đến mõm hay vượt quá một chút.

Chàng hiu rất phổ biến, chúng thích sống ở những đám cỏ, cây ẩm ướt, ven các vực nước. Chúng nhảy từ cây cỏ này sang cây cỏ khác dể dàng. Thức ăn của chúng là kiến, sâu non, cánh cứng, mối, cào cào, nhện, góp phần vào việc tiêu diệt côn trùng có hại.

* Cóc nhà (Bufo melanostictus)



Cơ thể thô, sần sùi, trên lưng và chân có nhiều mụn cóc to nhỏ xen kẻ. Về phía mang tai các mụn cóc tập hợp lại thành hai tuyến lớn gọi là tuyến mang tai. Ðầu cóc thường màu đen, lưng màu xám vàng, vàng nhạt, đỏ nâu hay xám nhạt. Phần bụng màu trắng lợt hay có đốm, cổ họng màu đen nhạt. Cóc đực lớn nhất có chiều dài thân 0,6 cm, cóc cái lớn nhất 0,8 cm. Trọng lượng khoảng 90g.

Mõm nhọn, ngắn bẹt ra. Miệng rộng lưỡi bầu tròn. Màng nhĩ có chiều dài 2/3 đường kính mắt.

Chi trước ở đầu ngón có vết chai, ngón 1 và ngón 3 dài hơn các ngón khác. Chi sau các ngón có da nối 1/2.

Cóc nhà thường sống gần người, chúng sống ở quanh nhà trong những hang hốc nhỏ, khô ráo, kín gió có sẵn như góc tường, đống gạch. Hang của cóc gần như cố định, mỗi hang cóc từ 2 - 5 con.

Cóc kiếm ăn từ sẫm tối đến gần sáng. Thức ăn của chúng là những loại côn trùng (ruồi, muỗi, dán, mối, chuồn chuồn, kiến, nhện, giun đất.. .. ).

Nếu ban ngày trời u ám có mưa thì cóc cũng hoạt động kiếm ăn (do hang giun đất bị ngập nước giun ngoi lên mặt đất làm thức ăn cho cóc). Cóc có khả năng nhận biết được sự thay đổi áp suất của không khí, do đó tiếng nghiến răng của cóc báo hiệu trời mưa.

Cóc đẻ nhiều lứa trong một năm, mùa sinh sản của còc thay đổi theo từng vùng (khoảng tháng 4, 5 đến tháng 11, 12). Trứng màu đen tạo thành những giải trứng dài (có khi đến 10m) vắt trên các cành cây, đám cỏ hoặc chìm sâu xuống đáy. Cóc ghép đôi nhiều nhất vào ban đêm từ 21 - 22 giờ trở đi.

Cóc là loài lưỡng thê có ích vì góp phần tiêu diệt côn trùng có hại. Thịt cóc ngon bổ, bột cóc là thuốc chữa bệnh còi xương. Mũ cóc cũng là dược liệu quí.

* Hót cổ (Rhacophorus leucomystax)



Ðôi khi còn gọi là chẫu chàng, kích thước trung bình, chiều dài thân con cái 8cm, con đực khoảng 5cm, trọng lượng cơ thể 15g. Hót cổ bám trên cây và nhảy từ cành này sang cành khác cách nhau đến 3m nên còn gọi là ếch cây.

Da trơn, lưng màu xám nhạt, đỏ nâu, vàng. Phần bụng trắng, vàng lợt.

Ðầu to, mõm ngắn, thân dẹp. Miệng rộng,lưỡi chẻ hai. Ðầu ngón tay, ngón chân có những giác bám lớn giúp chúng bám và di chuyển dễ dàng trên cành cây.

Hót cổ thường sống ở các đám cỏ, bụi cây nhỏ bên các vực nước nhỏ như ao mương, vũng nước ngoài đồng hay chung quanh nhà.

Mùa sinh sản từ tháng 3 đến tháng 8. Tiếng "toác toác, đụp đụp" báo hiệu mùa đẻ trứng. Chúng thích đẻ trứng vào ban đêm, ghép đôi trong các cành lá, đám cỏ , bụi cây. Trứng đẻ ra sau khi được thụ tinh được các cá thể cái dùng chân sau đảo tạo thành cá đám bọt lớn gọi là tổ dính trên các cành lá. Lúc đầu đám bọt nầy trắng, sau chuyển trắng ngà hay vàng. Trứng phát triển thành nòng nọc màu vàng nhạt hay màu đất. Tổ rơi xuống nước, nòng nọc phát triển thành hót cổ trưởng thành. Hót cổ ăn côn trùng cánh cứng, cào cào, châu chấu, sâu non, mối, gián, kiến.. .. nên có ích trong nông nghiệp.

* Cóc nước (Ooeidozya lima)



Còn gọi là cóc nước sần, có khi gọi "nhái bèo", nhỏ từ 2-3 cm, dáng bầu bầu.

Da có nhiều mục cóc nhỏ, vị trí không đều nên được gọi là cóc nước. Lưng màu nâu lục hay xám nhạt, đôi khi có màu đất hơi xanh, có một sọc màu xanh hay trắng đục chạy từ mõm đến lỗ huyệt. Phía bụng màu vàng với những lằn nâu đậm ở trên cánh tay và dài theo sau bắp đùi.

Ðầu nhỏ, ngắn, mõm hơi nhọn. Chi sau có đầu ngón hơi nhọn, màng nối rất rộng có tỷ lệ 1/1. Khớp cổ chày chạm đến đầu mõm.

Cóc nước sống hoàn toàn trong nước, trong các ruộng nước cấy lúa, ao, rãnh nước có bèo rong rêu. Chúng thường thả mình trôi nổi trên mặt nước hay bám vào các cây cỏ, lá bèo. Vào những chiều nắng khoảng 3-5 giờ hoặc những ngày sáng mưa chiều nắng chúng kêu nhiều. Tiếng kêu nhờ túi thanh âm nghe "kèng kéc" vang rất xa.

Cóc nước bơi lội giỏi, lặn sâu 2 phút, có ích cho nông nghiệp vì tiêu diệt các côn trùng cánh cứng, cào cào và các côn trùng có hại khác.

* Nhóc nhen (Phrynoglossus laevis)

Còn gọi là cóc nước nhẵn, có kích thước lớn hơn cóc nước sần sùi một chút.

Da láng đôi khi có các mụn cóc nhỏ. Phía lưng có màu xám, nâu dợt hay đỏ nâu, đôi khi có 1 hay 2 lằn nhỏ sáng chạy dọc lưng rõ nhất. Họng màu trắng dợt hoặc có các vết màu nâu.

Ðầu nhỏ, miệng tròn, màng nhĩ không phân biệt rõ, từ 2/3 -1/1 đường kính mắt.

Miệng rộng, lưỡi hình bầu dục có đầu tròn. Chi trước có ngón ngắn, đầu ngón hơi tù. Chi sau có màng da nối rộng, tỷ lệ 2/3, khớp cổ chày vượt khỏi đầu mõm một chút.

Nhóc nhen không sống hoàn toàn trong nước, mà thường ẩn trong các bụi cỏ, các cây ven bờ nước, các khe rãnh ven đường. Gặp nguy hiểm chúng thường lặn vào ẩn trong bùn hoặc trú vào các đám cỏ, cây gần vũng nước. Tiếng kêu của con đực vang xa nghe "nhóc-nhóc, nhen-nhen".

Ðây là loài lưỡng thê có ích vì tiêu diệt các côn trùng gây hại.

* Ểnh ương (Kaloula pulchra)



Cơ thể tương đối lớn, chiều dài thân 0,6 - 0,8 cm.

Da láng có những mụn ruồi dẹp không đồng đều. Mặt lưng từ góc sau hai mắt chiếm hết lưng có màu nâu. Ngang giữa hai mắt có vạch vàng. Mỗi bên thân lại có một vạch vàng theo chiều dọc.

Ðầu nhỏ, miệng nhỏ, mõm hơi tù, màng nhĩ khó thấy, lưỡi tròn, thân bầu.

Chi trước có đầu ngón hơi phình. Chi sau ngắn, đầu ngón phình ra thành giác bám nhỏ.

Ểnh ương rất phổ biến. Tiếng kêu "uênh oang" nghe rất rền rĩ, vang xa là do khi kêu ngoài túi thanh âm toàn cơ thể cũng căng phồng khí làm tăng âm thanh. Ểnh ương bơi giỏi song chúng thường nuốt khí làm cơ thể căng phồng như một chiếc phao bơi để tự do thả nổi mình theo dòng nước. Khi gặp nguy hiểm có nhiều trường hợp ểnh ương không bỏ chạy mà hiện ngang đương đầu với kẻ thù. Khi đó chúng nuốt không khí làm cơ thể phình to ra, làm cho kẻ thù phải bỏ đi.

Ểnh uơng có miệng quá hẹp, nên chỉ bắt được những con côn trùng nhỏ, đôi khi nó bắt được cào cào, dế nhưng không nuốt được đành phải bỏ đi.

Ểnh ương được xếp vào loài có ích cho nông nghiệp, ở miền nam một số nơi dùng làm thực phẩm.

* Nhái bầu hoa (Microhyla ornata)



Ðôi khi gọi ểnh ương nhỏ, chiều dài thân từ 1,5-3 cm. Da láng lưng có màu nâu đôi khi hơi hồng, có một vệt màu nâu sậm kéo dài từ đầu đến hai bên đùi thắt lại ở hai nơi. Vệt này mang những nhánh phụ hơi xiên ở phía sau màu trắng, có những chấm nâu.

Ðầu nhỏ, mõm nhọn, miệng hẹp, lưỡi tròn, thân bầu ra ở phía dưới, các chi ngón rất nhỏ, đầu ngón hơi tròn.

Nhái bầu hoa sống ở nơi ẩm ướt, các bãi cỏ, bờ ao, mương. Miệng tuy hẹp nhưng tiếng kêu rất lớn. Tiếng kêu "ọ ẹc, ọ ẹc" vang rất xa do túi thanh âm rất lớn ở con đực. Tuy nhỏ nhưng mỗi bước nhảy dài có thể đến 2m.

Thức ăn của chúng là mối, cánh cứng nhỏ, sâu non, nên đây là loài có ích cho nông nghiệp.

trích: Lớp lưỡng thê, ctu.

 
Last edited:
Back
Top