Cây cảnh hải đăng

  • Thread starter Thread starter hoahongvang
  • Ngày gửi Ngày gửi
Vị thuốc cỏ sữa

Cỏ sữa lá lớn có tên khoa học là Euphoria hirta L. thuộc họ Thầu dầu (Euphorbiaceae). Là loại cỏ mọc hàng năm, thân mảnh, mọc đứng cao khoảng 40cm có màu đỏ nhạt, có phủ lông màu vàng nhạt. Lá màu xanh hoặc đỏ, hình mác, dài khoảng 2-3 cm, rộng 5-15 mm, mép lá có răng cưa nhỏ. Hoa nhỏ, màu trắng đỏ nhạt. Quả màu nâu nhạt.
Cỏ sữa lá nhỏ có tên khoa học Euphorbia thymifolia Burm, thuộc họ thầu dầu, thường được dùng toàn cây làm thuốc. Cây mọc lan trên mặt đất, thân cành có màu tím đỏ. Lá mọc đối, hình bầu dục hoặc thon dài, dài nhất khoảng 7 mm, lá hơi khía tai bèo. Cả hai loại cỏ sữa nói trên mọc hoang khắp nơi và được dùng để chữa bệnh, nhất là bệnh lỵ.

Cỏ sữa thu hái về mùa hè, rửa sạch, phơi khô để dùng dần làm thuốc. Sở dĩ gọi là “cỏ sữa” bởi vì khi bẻ ngang thân chỗ nào cũng tiết ra một chất nhựa mủ màu trắng đục như sữa. Theo đông y, cỏ sữa có vị hơi đắng, chua, tính mát, hơi có độc, tác dụng tiêu viêm, lợi tiểu, giải độc, chống ngứa, thông sữa. Toàn cây đều được dùng làm thuốc.
Người ta dùng lá cây cỏ sữa để cầm máu và điều trị các trường hợp rối loạn đường tiêu hóa, giúp hạ sốt và làm mát cơ thể. Cỏ sữa giúp làm mềm da và làm giảm kích ứng các màng nhày trong cơ thể. Cỏ sữa còn có tác dụng xổ nhẹ. Sau đây là những bài thuốc từ cỏ sữa:
- Chữa nứt môi hoặc viêm lưỡi: Lấy dịch mủ của cây cỏ sữa lá lớn bôi lên môi giúp mau lành các vết nứt nẻ môi.
- Chữa viêm loét, mụn nhọt ngoài da: Cỏ sữa lá nhỏ lượng vừa đủ, giã nát đắp lên chỗ tổn thương.
- Cầm tiêu chảy: Lấy khoảng 12gr thân lá cỏ sữa lá lớn nghiền hoặc xay chung với ít nước uống vào sẽ giúp cầm tiêu chảy và lỵ.
- Chữa các bệnh nhiễm trùng da: Lấy cây cỏ sữa lá lớn phơi khô nghiền thành bột trộn thành khối nhão sau đó đắp lên vết thương hay vết bỏng.
- Chữa lỵ: Cỏ sữa lá to phối hợp với hoàng đằng, nấu thành cao lỏng để uống.
- Chữa viêm da mẩn ngứa: Cỏ sữa lá nhỏ lượng vừa đủ giã nát, xoa xát hay nấu nước tắm rửa.
- Chữa ho hen: Cỏ sữa lá to 10 g, lá cây bồng bồng 3 lá, lá dâu 20 g. Sắc uống ngày một thang, chia 2-3 lần.
- Chữa lòi dom chảy máu: Cỏ sữa lá nhỏ tươi 80-100 g, giã nát, vắt lấy nước cốt uống. Có thể dùng cây khô sắc uống.
- Chữa thiếu sữa: Cỏ sữa tươi 100g, hạt cây gạo 40g, hai thứ sắc kỹ, lấy nước nấu cháo gạo ăn.
- Chữa lỵ: Cỏ sữa lá nhỏ 20-50 g (ở người lớn có thể dùng tới 100-150 g). Sắc uống ngày một thang. Hoặc cỏ sữa lá nhỏ 30 g, rau sam 30 g, sắc uống ngày một thang.
Chú ý: Cỏ sữa có độc nhẹ nên tránh dùng các loại cỏ sữa ở liều cao vì có thể gây kích ứng dạ dày và gây nôn mửa, nên uống cùng lúc khi ăn. Ngoài ra, chất “nhựa mủ” gây độc đối với cá và chuột.

--------

Cây mạch mộ, cây lá hẹ:
4f49a7090cb4d343db2ef57da0b094c0_53797568.201303080513421.jpg
[/url] [/IMG]
 
Last edited by a moderator:
Chậu trồng hoa, khay ươm

c638fc8895caf2b18f82298f7fba4fcc_53844851.20130309112804.jpg
[/url] [/IMG]
 
Có bán hạt giống sen súng không bạn?
 
CÂY HOA HIÊN:
Cây có nguồn gốc từ châu Âu hay Nhật Bản, nay được trồng rộng rãi ở vùng núi để làm cảnh và làm rau ăn. Cây thân cỏ, mọc bụi dày, sống lâu năm. Lá xếp 2 dãy trên một mặt phẳng, dài 40/50cm, rộng 0.5 - 1cm, màu xanh bóng, mềm uốn cong ra. Cụm hoa trên cuống chung dài hơn lá, thẳng, cứng, màu xanh bóng. Hoa lớn tập trung thành tán, màu vàng, gốc hơi hợp thành ống, trên chia 6 thùy thon dài, có hương thơm mát. Nhị thò ra ngoài bao hoa. Mùa hoa tháng 5 - 7. Cây mọc khỏe, đẻ nhánh dày có thể trồng bằng tách bụi có đủ rễ và chồi mầm. Cây ưa khí hậu mát lạnh, ẩm ướt, nhưng đủ nắng. Đất trồng cần làm kỹ bón lót đầy đủ. Cây trồng ở chậu bày dọc lối đi hay nơi hàng hiên rất đẹp.
 
sÂM ĐẤT

Cây vừa có tác dụng chữa bệnh và vừa là thực phẩm ( nấu canh ) nấu canh rất ngon . Đặc biệt cây phát triển rất nhanh và có hoa đẹp


Sâm đất, Sâm nam, Sâm rừng, Sâm quy bầu - Boerhavia diffusa L. (B. repens L.), thuộc họ Hoa phấn - Nyctaginaceae.

Mô tả: Cỏ nằm rồi đứng, sống dai. Rễ mập, hình thoi. Thân mọc toả ra sát đất, màu đỏ nhạt. Lá mọc đối, có cuống, phiến xoan tròn dài hay hình bánh bò, mép lượn sóng, mặt dưới có nhiều lông màu trắng lục. Cụm hoa chùm mang xim 3 hoa không cuống. Các nhánh hoa có nhiều lông tròn dính vào quần áo. Hoa màu đỏ tía, có 1-2 nhị. Quả hình trụ, phồng ở đầu, có lông dính.

Ra hoa kết quả quanh năm, chủ yếu tháng 4-6.

Bộ phận dùng: Rễ và lá - Radix et Folium Boerhaviae Diffusae.

Nơi sống và thu hái: Loài liên nhiệt đới, mọc hoang khắp nơi, ở vườn, sân, bờ đường hay bãi cỏ... Thu hái rễ, lá quanh năm, đào rễ (tốt nhất vào mùa thu) và rửa sạch, phơi hay sấy khô.

Thành phần hoá học: Trong rễ có 0,01% một chất alcaloid có hoạt tính là punarnavine; alcaloid tổng số trong rễ là 0,04%; còn có một chất thơm, tinh bột, chất gôm, một chất dầu bay hơi, nitrat kalium.

Tính vị, tác dụng: Rễ có tác dụng lợi tiểu, nhuận tràng, làm long đờm, làm tăng lượng nước tiểu, nhưng với liều cao, có thể gây nôn mửa và làm ra nhiều mồ hôi. Nó có tác dụng vào hệ thần kinh như một tác nhân chống co giật. Lá có tác dụng hoạt huyết, giải độc.

Công dụng, chỉ định và phối hợp: Ðược dùng chữa hen suyễn, đau dạ dày, phù thũng, thiếu máu, vàng da, cổ trướng, phù toàn thân, tiểu ít, táo bón thường xuyên, các bệnh về gan và lá lách; còn dùng trị viêm nhiễm bên trong và trị nọc độc rắn. Lá được dùng trị sang độc.

Liều dùng 10-15g, dạng thuốc sắc hay thuốc hãm. Có thể tán bột uống. Có thể pha uống như trà (10g trong 1 lít nước sôi) nếu pha rượu thì chỉ dùng liều 2-5g bột rễ trong 1 ngày.
 
HOA ĐỖ QUYÊN:
Cách chăm sóc hoa đỗ quyên

Đỗ quyên là loài hoa có màu sắc đa dạng, được nhiều người ưa chuộng và mua về làm cây cảnh. Hiện đỗ quyên là quốc hoa của Nepal.
> Kỹ thuật trồng cây

Trong bài viết gửi VnExpress về kỹ thuật trồng và chăm sóc hoa đỗ quyên, độc giả Hùng Tân cho biết, để nhân giống hoa đỗ quyên người ta thường dùng các phương pháp giâm cành, gieo hạt và chiết. Đối với giâm cành có thể tiến hành vào tháng 5 hoặc tháng 10, chiết vào tháng 4 - 5, còn gieo hạt thì vào vụ xuân. Phương pháp giâm và chiết thì nhanh cho cây thành phẩm hơn so với gieo hạt

Kỹ thuật làm đất

Đất trồng hoa đỗ quyên phải đảm bảo đủ các yếu tố sau: Đất tơi xốp, thoát nước, thông thoáng gió, nhiều mùn, đủ phân bón. Độ pH khoảng từ 4 – 5 là phù hợp nhất.

Cách pha trộn đất trồng hoa đỗ quyên: Lấy 2 phần đất mặt trên núi phong hoá + 1 phần lá rụng + 1 phần phân động vật ăn cỏ, trộn ủ 1 năm. Ngoài ra cũng có thể trộn theo công thức: 3 phần đất tầng mặt + 3 phần phân ngựa + 3 phần lá mục + 1 phần nước giải, trộn đều, phân thành lớp, ủ trong 1 – 2 năm. Chú ý, phải để phân ủ trong nhà có mái che để giảm độ phì do nắng mưa, trước khi dùng thì phải loại bỏ tạp chất.

Kỹ thuật chăm sóc

Kỹ thuật thay chậu: Thay chậu với hoa đỗ quyên là việc làm cần thiết. Cây hoa đỗ quyên cần được thay chậu trong các trường hợp sau: Chuyển cây từ ngoài đất vào chậu. Thứ hai là cây con lớn, bộ rễ đầy chậu đáy chậu có rễ ra ngoài. Cũng cần phải thay chậu sau khi trồng cây 2-3 năm, dinh dưỡng trong chậu đã hết. Có thể tiến hành thay chậu vào vụ xuân hoặc vụ thu (trước khi hoa đã tàn hoặc trước khi cây vào nụ). Khi thay chậu người chăm sóc nên chọn loại chậu có chất liệu và kích thước phù hợp với tuổi cây. Khi thay chậu chú ý bỏ hết đất cũ, cắt bỏ rễ xấu. Sau khi thay chậu cần tưới đẫm nước, nếu thay vào vụ thì cần chú ý giữ ẩm cho cây trong vụ đông.

Kỹ thuật tưới nước: Cây đỗ quyên có bộ rễ rất mạnh nên nó rất sợ hạn và không chịu ngập úng lâu. Nếu hạn hoặc úng quá đều khiến cây sinh trưởng, phát triển kém, lá vàng, hoa rủ. Chính vì vậy, cần căn cứ vào điều kiện thời tiết để có chế độ tưới cho phù hợp. Thời gian tưới tốt nhất là vào buổi sáng sớm hoặc chiều mát. Vào thời kỳ cây sinh trưởng, ra nụ, hoa cần tưới nước nhiều hơn. Trong những ngày trời hanh khô cần phun nước nhiều xung quanh lá, hoa, chậu và mặt đất để tăng độ ẩm không khí.

Nước dùng tưới cho đỗ quyên tốt nhất là nước tự nhiên, rồi nước sông, ao hồ và cuối cùng là nước máy. Để tăng độ chua cho nước tưới ta có thể cho thêm sunfat sắt hoặc cho thêm dấm ăn.

Kỹ thuật bón phân: Đỗ quyên không phải loại cây phàm ăn, vì vậy cần chú ý khi bón phân. Nếu bón nhiều phân, bón phân quá đặc còn ảnh hưởng đến sinh trưởng của cây. Để hoa to và đẹp thì cần bón một lượng phân phù hợp, cách bón phân hợp lý mà theo kinh nghiệm của nhà vườn là: Phân khô bón ít, phân nước pha loãng. Thông thường chỉ bón phân với các cây từ hai năm tuổi trở lên. Đối với cây 2-3 năm tuổi thì chỉ bón từ cuối xuân đầu hè, cứ 10-15 ngày bón một lần phân loãng. Đối với cây từ 4 năm trở lên, mỗi năm bón 2 lần phân khô vào mùa xuân và mùa thu, giữa tháng 6 thì bón một lần phân P, K. Sau tháng 6 thì ngừng bón phân, đến khi tàn, cây mọc cành mới có thể bón nước phân loãng.

Một số chú ý khi bón phân:

- Không nên bón nhiều phân vào mùa hè để tránh vàng lá, rụng lá.

- Mùa hè cây sinh trưởng bình thường và đang bước vào giai đoạn sinh trưởng thực thì có thể bón 1-2 lần Ca3(PO4)2 + Ca(HPO3) thúc đẩy ra nụ hoa. Sau mỗi lần bón phần cần tăng cường tưới nước và xới xáo. Sau mùa đông không cần bón phân.

Phòng trừ sâu hại

- Nhện đỏ gây hại chủ yếu trên hoa. Khi bị nhiễm nhện có thể dùng loại thuốc như DDVP 0,1% phun trừ hoặc dùng nước ngâm lá trúc đào, thanh hao pha loãng để phun.

- Rệp ống gây hại trên lá, cành non và hoa. Đối với loại này cần chú ý việc diệt trứng của chúng qua đông bằng hợp chất lưu huỳnh vôi 5%. Trong thời kỳ rệp gây hại thì có thể dùng thuốc Rogor 0,1%.

- Nhện râu ngắn gây hại trên lá, cành non và phát sinh mạnh vào mùa hè. Có thể dùng Sumithion 0,2% phun diệt.

- Bệnh thối rễ: Bệnh làm cho cây khô héo. Bệnh phát sinh mạnh trong điều kiện nhiệt độ cao, độ ẩm lớn. Để hạn chế bệnh cần phải xử lý đất khi thay chậu. Khi phát hiện bệnh cần xử lý cây và đất kịp thời bằng thuốc tím 0,1% hoặc sunfat sắt 2%. Có thể dùng Topxin 0,1% phun vào chậu cũng có hiệu quả.

- Bệnh đốm nâu: Đây là loại bệnh gây hại chính trên cây đỗ quyên và gây hại chủ yếu trên lá, làm ảnh hưởng tới hoa. Để phòng trừ bệnh cần chú ý để cây vào nơi thông thoáng, cần tăng cường bón phân tổng hợp. Khi phát hiện cây nhiễm bệnh cần nhanh chóng phun Boodo 1% để trừ bệnh.

- Bệnh lá vàng do thiếu sắt: Bệnh này thường xuất hiện ở cây trồng trên đất kiềm. Với loại bệnh này thì chỉ cần bổ sung thêm sắt sunfat là được. Có thể bổ sung theo 2 cách là tưới hoặc phun.
 
HOA NHÀI - VỊ THUỐC TUYỆT VỜI:
Hoa nhài là vị thuốc quyến rũ, kích thích tình dục lẫn tăng cường năng lượng cho con người, lại rất dễ chế biến
Không phải thuốc nào cũng bẻ nhỏ, ngâm cho tan
Hoa nhài (Jasmine) còn gọi là hoa lài hay mạt ly, nhài đơn, mạt lợi, tên khoa học là Jasminum Sambac Ait, họ nhài (Oleaceae). Là loài hoa đẹp và có hương thơm thật quyến rũ lại bền lâu.
Nhài có hoa trắng, mọc thành cụm ở nách lá hay ngọn cây, thường nở vào ban đêm hoặc vào giữa trưa. Hoa nhài có tính bình, hơi hàn, vị đắng có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, lợi thấp, tiêu thũng, hoạt huyết... Bộ phận sử dụng làm thuốc là hoa và rễ. Trong hoa nhài chứa chất béo thơm khoảng chừng 0,08%. Rễ tuy độc nhưng được dùng làm thuốc giảm đau.


Hoa nhài có tác dụng tãng cuờng nãng luợng.


Tinh dầu hoa nhài là duợc liệu rất tốt. Ảnh: CTV


Các đặc tính của hoa nhài là liên quan đến mùi đặc biệt của nó, đủ để thuyết phục chúng ta nên thử các sản phẩm sức khỏe liên quan đến hoa nhài.
Dầu được chiết xuất từ hoa nhài rất nổi tiếng và đắt tiền. Tuy nhiên, ảnh hưởng của nó đối với cơ thể thì thật là quý giá. Loại thảo dược này có tác dụng loại bỏ sự căng thẳng và trầm cảm, giúp bạn lấy lại sự tự tin. Đặc biệt hoa nhài tươi có chứa một lượng khá cao dầu etheric, có tác dụng tăng cường năng lượng. Ngoài ra, hoa nhài cũng có chứa benzilic acetate, linalcohol, rượu benzilic, indole và jasmon..., tất cả các chất này tạo cho hoa nhài đặc tính kích thích tình dục.
Tác dụng khác của hoa nhài là cải thiện tiêu hóa, bổ trợ trong việc loại bỏ độc tố và giúp giảm cân. Hoa nhài cũng giúp đẩy mạnh quá trình trao đổi chất, cải thiện lưu thông máu.
Sử dụng hoa nhài đơn giản nhất là uống trà hoa nhài. Trà hoa nhài có thể được sử dụng để điều trị đau đầu, ho và bệnh thấp khớp. Phụ nữ sinh đẻ, dùng dầu hoa nhài cũng rất tốt, là chất khử trùng mạnh mẽ, an thần và thuốc bổ được đề nghị dùng cho trường hợp khó thở, ho và suy nhược thần kinh. Một lượng nhỏ tinh dầu hoa nhài cũng có thể làm dịu cơn đau. Trà hoa nhài có tính chất an thần và nó có thể điều chỉnh lưu thông máu và giảm căng thẳng động mạch. Một tách trà hoa nhài kết hợp với trà xanh là một liều thuốc bổ và có hiệu quả tăng năng lượng.
Có thể tham khảo một số bài thuốc dưới đây cho một số bệnh chứng.
- Chữa mất ngủ: Hoa nhài 6 g, tâm sen 8 g. Hãm hoa nhài và tâm sen với nước sôi, uống nhiều lần trong ngày. Uống liên tục từ 7-10 ngày sẽ thấy kết quả rõ rệt. Hoặc hoa nhài 10 g, bồ công anh 20 g, kim ngân hoa 20 g, cam thảo đất 10 g, sắc uống ngày 1 thang chia 2-3 lần, uống liên tục trong 7 ngày.
- Chữa huyết áp cao: Hoa nhài 10 g, hoa hòe 10 g, kim cúc 6 g, hoa đại 6 g. Sắc với ba bát nước còn một bát, chia uống 2 lần trong ngày vào buổi sáng và tối sau bữa ăn. Mỗi liệu trình uống 10 ngày.
- Trị tiêu chảy: Hoa nhài 6 g, chè xanh 10 g, thảo quả 3 g, vỏ dộp ổi 3 g. Cách dùng: 4 thứ trên đem sắc với 600 ml nước còn 200 ml, chia 3 lần uống trong ngày, uống sau các bữa ăn. Uống liên tục trong 3 ngày. Hoặc hoa nhài 10 g, vỏ quả lựu 10 g, cam thảo đất 16 g. Sắc uống ngày 1 thang, chia 2-3 lần. Uống trong 4 ngày.
- Chữa chứng hay nhức đầu, hoa mắt, chóng mặt: Hoa nhài và hoa cúc vàng, mỗi vị 6 g. Cả hai rửa sạch, để ráo đem hãm với nước sôi, uống thay nước chè hằng ngày.
- Nhức mỏi, đau đầu gối: Hoa nhài 50 g, móng giò heo 200 g. Cách nấu: móng giò heo rửa sạch, chặt khúc, ướp gia vị. Hoa nhài đã rửa sạch để ráo. Cho 3 bát nước đun sôi móng giò khoảng 30 phút, cho hoa nhài vào, nêm gia vị vừa đủ bắc ra ngay. Ăn khi canh còn nóng, có thể dùng làm canh ăn với cơm. Mỗi tuần nên ăn khoảng 3-5 lần. Đơn thuốc này dễ làm nhưng lại hiệu quả cho người hay nhức mỏi, đau đầu gối.
- Giúp thanh nhiệt, tăng cường sức đề kháng: Hoa nhài khô 6 g sắc uống thay nước hằng ngày. Hoặc dùng trà hoa nhài: Hoa nhài khô 1 thìa, cho hoa nhài vào bình trà, rót 300 ml nước sôi để hãm, 5 phút sau trà có mùi thơm có thể uống luôn, người thích ngọt thì cho thêm mật ong hòa đều để nguội uống. Bài thuốc này có công dụng thanh thuần tỉnh não, khai khiếu giải phiền.
- Chữa đi tiểu nhiều: Hoa nhài 5 g, ngân hạnh 3 g, sắc với 3 bát nước trong 1 giờ. Ngày uống 2 lần, uống trong 7 ngày.
- Chữa ho suyễn: Hoa nhài 3 g, đậu phụ 100 g hãm vào nước sôi uống trị được phế ung, ho suyễn, ngực đầy khí suyễn, hô hấp không thuận. Uống liên tục trong 10 ngày.
- Trị chứng phát sốt do ngoại cảm: Hoa nhài 4 g, thảo quả 3 g, chè xanh 10 g. Sắc lấy nước uống ngày 1 thang, chia 3 lần.
- Trị rôm sảy: Lá nhài 50 g, lá sài đất 20 g, lá ngải cứu 30 g. Sắc nước uống ngày 1 thang, chia 2-3 lần. Uống liền trong 3-5 ngày.
- Trị mụn nhọt: Hoa nhài 10 g, cam thảo đất 16 g, kim ngân hoa 20 g, bồ công anh 20 g. Sắc lấy nước uống ngày 1 thang chia 2-3 lần.
BS HOÀNG XUÂN ĐẠI
 
CÚC GAI - THẦN DƯỢC BẢO VỆ GAN

Truyền thuyết Châu Âu kể rằng, những vân trắng trên mặt lá cúc gai là vết tích dòng sữa trắng óng, mềm mại của Đức mẹ Đồng trinh nhỏ xuống. Vì thế, dòng sữa này có tác dụng dùng để kích sữa cho phụ nữ sau khi sinh. Nhưng khoa học hiện đại khám phá khả năng bảo vệ gan của cúc gai là kỳ diệu nhất!



Bí ẩn loài cây dại

Cây cúc gai (còn gọi là kế sữa, kế thánh, kế đức mẹ...). Cây cúc gai có vị đắng, tính hàn, mọc nơi có khí hậu mát mẻ. Dân gian thường lấy cây giã nước uống hạ nhiệt, cầm máu, trừ lỵ, đắp vào mụn nhọn... Có người hái lá nấu canh, nướng hạt làm đồ uống giống như cafe hoặc trộn vào các loại bánh. Hoa cúc gai rất lạ và đẹp nên còn được nâng niu như một loại cây cảnh quý hiếm.

Tuy nhiên, sự kỳ diệu của cúc gai không chỉ có vậy, khoa học đã vén được tấm màn bí mật về công dụng tuyệt vời của nó trong điều trị các bệnh hiểm nghèo như: gan nhiễm mỡ, suy gan, viêm gan cấp và mãn tính, xơ gan.

Từ một loại cây hoang dại đến nay cúc gai đã được trồng thu hoạch phục vụ sức khoẻ con người. Trên thế giới có rất nhiều thuốc được chiết xuất từ cây cúc gai như: Milk Thistle, Spark-Milk Thistle, Swanson, Milk Thistle Extract.... Các sản phẩm này có dạng viên nén, viên nhộng, dạng cao nước.

Khả năng của cúc gai

- Ổn định màng tế bào gan, ngăn cản sự xâm nhập của các chất độc vào bên trong gan.

- Tăng tổng hợp protein ở tế bào gan do kích thích hoạt động của RNA polymerase, góp phần giải độc cho gan.

- Thúc đẩy sự phục hồi các tế bào gan đã bị hủy hoại, kích thích sự phát triển của các tế bào gan mới thay thế các tế bào gan đã bị hủy hoại.

- Ức chế sự biến đổi của gan thành các tổ chức xơ, giảm sự hình thành và lắng đọng của các sợi collagen dẫn đến xơ gan.

- Chống peroxyd hóa lipid, tăng khả năng oxi hóa acid béo của gan, làm ổn định các tế bào gây viêm, ức chế phản ứng viêm, giảm các nồng độ enzym gan, làm cải thiện các triệu chứng của bệnh gan như gan nhiễm mỡ, viêm gan.

- Ngăn cản quá trình oxi hóa LDL cholesterol thành các mảng bám vào thành động mạch là nguyên nhân gây xơ vữa động mạch.
 
Cây giống hoa nhài nhật, sim tím

Nhà vườn HẢI ĐĂNG cung cấp cây giống hoa nhài nhật, sim tím đến bà con
 
CÔNG DỤNG CÂY LẠC TIÊN:


Cây lạc tiên.
Lạc tiên có tên gọi khác là chùm bao, dây nhãn lồng, dây lưới, mắm nêm, dây bầu đường, mỏ pỉ, quánh mon (Tày), co hồng tiên (Thái) tây phiên liên. Lạc tiên là loại dây leo, thân mềm, rỗng, có nhiều lông thưa. Lá mọc so le, 3 thùy, mép và hai mặt có lông mịn, tua cuốn cuộn tròn. Hoa màu trắng ở giữa tím nhạt, phần phụ hình sợi. Quả mọng màu vàng, ăn được.
Cây mọc tự nhiên ở ven rừng, đồi núi. Nhiều loài khác cũng được dùng như lạc tiên Nam Bộ, lạc tiên tây, lạc tiên trứng.
Lạc tiên được dùng làm thuốc an thần chữa mất ngủ, suy nhược thần kinh. Nhân dân vẫn hay lấy ngọn non luộc ăn vào buổi chiều hoặc trước khi đi ngủ vài giờ. Dạng dùng thông thường là cao lỏng có đường, được pha chế như sau:
Cây lạc tiên 50g, lá vông 30g, lá dâu tằm 10g, liên tâm 2,2g, đường 90g, nước vừa đủ 100ml, axít benzonic để bảo quản và cồn vừa đủ để hòa tan axít benzonic. Ngày dùng 2 - 4 thìa to, trẻ em 1 - 2 thìa cà phê. Uống trước khi đi ngủ làm thuốc an thần, gây ngủ, chữa hồi hộp, bồn chồn.
Chữa thần kinh suy nhược: Dùng dây, lá lạc tiên 8 - 10g, sắc uống trước khi đi ngủ.
Chữa viêm da, ghẻ ngứa: Dùng lá lạc tiên nấu nước tắm rửa.
Ngoài ra quả lạc tiên được dùng làm nước giải khát có tác dụng mát và bổ. Cách làm như sau: Quả chín (càng chín càng thơm 0,5kg), bổ đôi, nạo hết ruột, ép và lọc lấy dịch quả. Đường trắng 250g hòa với một lít nước đun sôi để nguội. Đổ dịch quả vào nước đường, trộn đều. Nước quả lạc tiên trứng có mùi thơm đặc biệt, vị hơi chua, chứa nhiều vitamin, nhất là vitamin B2.
Bác sĩ Thúy An
 
HOA TRANG LÀM THUỐC:


Hoa trang thường được các gia đình trồng tô điểm ở sân nhà, nhưng ít người biết về bài thuốc từ hoa.

Hoa trang miền Nam thường gọi là bông trang, còn miền Bắc hay gọi là hoa mẫu đơn; có các màu đỏ, trắng, vàng. Hoa thường được người dân trong nước trồng trước nhà, dưới chân các bàn thiên (nơi thắp hương) ngoài sân. Hoa thường mọc tự nhiên ở những vùng đồi núi. Ở một số nước Đông Nam Á, như Thái Lan, hoa trang màu đỏ dạng thấp thường được trồng hai bên bờ rào.

Theo lương y Vũ Quốc Trung, về y học cổ truyền, hoa trang có tính bình, vị đắng, đi vào hai kinh của cơ thể là tâm và can. Hoa có công dụng điều kinh hoạt huyết, khư ứ hành trệ, thường được dùng chữa cho phụ nữ bị tình trạng trục trặc về kinh nguyệt, và cả dùng chữa trật đả (trật tay chân) tổn thương, đau ở vùng lưng và eo. Vỏ của thân cây hoa trang, y học cổ truyền dùng làm vị thuốc có tên gọi là đan bì.

Một số bài thuốc

Trường hợp phụ nữ bị thống kinh (đau bụng khi hành kinh), đau đầu, thì có thể dùng 10 gr hoa trang đem sắc (nấu) lấy nước uống (có thể cho vào một ít đường cát trắng).

Chị em có tình trạng trước mỗi kỳ kinh hay bị đau bụng, đau vùng bụng dưới, có thể dùng bài thuốc: lấy 10 gr hoa trang, 10 gr hoa biển đậu đem nấu lấy nước uống thay cho trà trong ngày.

Chị em đến kỳ kinh mà không có kinh, tay chân lạnh, kèm đau vùng eo và bụng; hoặc bị chứng xích bạch đới (khí hư ở phụ nữ) có thể dùng 10 gr hoa trang, 10 gr hoa quế đem nấu lấy nước uống thay cho trà để cải thiện bệnh. Có thể cho vào ít đường để dễ uống.

Sản phụ sau sinh bị tình trạng chảy máu cam, có thể dùng vỏ của thân cây hoa trang (đông y gọi là vị thuốc mẫu đơn bì hay đan bì) cùng các vị thuốc khác: bồ hoàng, trắc bách diệp, hoàng cầm, bạch linh (mỗi loại bằng nhau, 8 gr) đem nấu lấy nước uống thay trà.

Để giúp điều kinh hoạt huyết, cải thiện kỳ kinh của phụ nữ không thuận, có thể dùng bài thuốc sau: một ít hoa trang, cùng 8 gr vị thuốc đương quy, 12 gr thục địa, 6 gr bạch thược, 20 gr xuyên khung. Hoa trang rửa sạch rồi cùng các vị thuốc, nửa lít nước cho vào nồi, nấu đến sôi, hạ lửa nhỏ nấu thêm mươi phút nữa, gạn lấy nước, bỏ bã thuốc. Dùng nước này đem nấu với cá, nêm nếm gia vị vừa dùng.

Nam giới bị tình trạng hạ bộ nổi mụn nhọt, có thể dùng bột nghiền từ vỏ thân cây hoa trang, bằng cách: một ngày dùng 3 lần, mỗi lần 4 gr uống với nước.
 
Rau dền gai - Thuốc quý trong vườn nhà

Ngoài công dụng làm rau ăn, dền gai còn được xem như là một vị thuốc quý chữa được nhiều bệnh.

Dền gai là loại rau quen thuộc dùng trong nhân dân. Cây mọc hoang và được trồng khắp nơi, hầu như vườn nhà nào cũng có. Dền gai là cây thân thảo, phân cành nhiều, không lông. Lá mọc so le, hình thuôn dài, cuống dài có cánh, ở gốc có 2 gai, mặt trên phiến lá màu xanh nhạt. Hoa mọc thành sim và sắp xếp sít nhau ở nách lá thành những bông dài, các lá bắc như gai. Quả là một túi hình trứng nhọn một đầu. Hạt đen óng ánh.
Ngoài công dụng làm rau ăn, dền gai còn được xem như là một vị thuốc quý chữa được nhiều bệnh. Toàn cây được dùng làm thuốc. Có thể thu hái quanh năm, đem về rửa sạch, thái nhỏ, phơi khô. Có thể đốt thành tro, dùng dần.
Theo y học cổ truyền, dền gai có vị ngọt nhạt, tính hơi lạnh; có tác dụng thanh nhiệt, lợi tiểu, trừ thấp, thu liễm ngừng tả. Thường dùng trị phù thũng, bệnh về thận, chữa lỵ và làm thuốc điều kinh. Phần cây trên mặt đất được dùng làm thuốc chữa bỏng, đắp tiêu viêm mụn nhọt. Lá có tính long đờm và được dùng trị ho và các bệnh về đường hô hấp. Hạt dùng để đắp, băng bó chấn thương...
Các bài thuốc thường dùng
Trật đả, ứ huyết: Dùng cành lá hay toàn cây nấu nước uống, mỗi ngày 10 - 15g uống thay nước trà.
Mụn nhọt chưa vỡ: Rễ rau dền gai rửa sạch, giã nát, đắp lên mụn nhọt, có tác dụng làm nhanh vỡ mủ.
Bỏng nhẹ: Thân, lá cây rau dền gai rửa sạch, giã nát, đắp lên vết bỏng.
Ho có đờm: Thân, lá cây rau dền gai 50 - 100g, giã nát, vắt lấy nước uống. Hoặc dùng thân, lá cây rau dền gai 50g, lá bồng bồng 20g, kim ngân hoa 20g, cam thảo đất 16g. Sắc uống ngày một thang, chia 2 - 3 lần. Hoặc dùng thân, lá cây rau dền gai 50g, lá húng chanh 16g, vỏ rễ dâu tằm 16g, cam thảo đất 16g. Sắc uống ngày một thang, chia 2 - 3 lần. Dùng 5 - 7 ngày.
Viêm họng, đau họng: Thân, lá cây rau dền gai, lượng vừa đủ, thêm một ít muối hạt, 1 - 3 lát gừng tươi. Tất cả nhai nát, nuốt nước dần. Ngày nhai, ngậm 1 - 2 lần đến khi đỡ đau họng.
Chữa sỏi thận: Rễ rau dền gai (sao vàng), kim tiền thảo, mã đề, rễ thiên lý, rễ cỏ tranh, đậu đen (sao thơm) mỗi thứ 12g; vỏ quả bí đao 20g, sắc uống. Uống trong 10 ngày.
Chữa da nổi mẩn ngứa do tiếp xúc với rơm rạ: Dền gai tươi, rau sam tươi, lá hẹ tươi (hoặc lá bạc hà tươi) các vị đều bằng nhau. Giã nát đắp vào chỗ da nổi mẩn, mỗi ngày 2 - 3 lần.
Chữa kinh nguyệt không đều: Rau dền gai 15g, bạc thau 20g, sắc uống.
Chữa bạch đới, khí hư: Rễ rau dền gai 20g, lá bạc hà 16g, phơi khô, thái nhỏ,
 
Địa liền ( tên khoa học: Rhizoma Kaempferiae) có tác dụng: Ấm trung tiêu, tán hàn, trừ thấp, trừ uế khí…


Bộ phận dùng: Dược liệu là thân rễ đã thái lát, làm khô của cây Địa liền (Kaempferia galanga L.)
Nguồn gốc: Dược liệu là thân rễ đã thái lát, làm khô của cây Địa liền (Kaempferia galanga L.), họ Gừng (Zingiberaceae).Cây mọc hoang và được trồng ở một số địa phương của nước ta.
Phân bố: Cây mọc hoang và được trồng ở một số địa phương nước ta.
Thu hái: Thu hái thân rễ vào mùa khô, Đào củ về rửa sạch, thái phiến mỏng, xông lưu huỳnh rồi phơi khô, sao cho dược liệu không bị đen và kém thơm. Do có tinh dầu nên Địa liền để bảo quản, ít bị mốc mọt.
Công năng: Ấm trung tiêu, tán hàn, trừ thấp, trừ uế khí.
Công dụng:
Ăn uống không tiêu, ngực bụng lạnh đau, tê phù, tê thấp, nhức đầu, đau răng.
Dùng ngoài làm thuốc xoa bóp, chữa tê thấp.
Cách dùng, liều lượng:
Uống mỗi ngày 4-8g dạng sắc hoặc hoàn tán, thường phối hợp với các vị thuốc khác.
Ngâm cồn xoa bóp cùng các vị thuốc khác.
Còn dùng trong kỹ nghệ cất tinh dầu chế nước hoa.
Bài thuốc:
Trị ăn uống không tiêu, đau dạ dày, đau thần kinh Địa liền 2g, Quế chi 1g. Hai vị tán nhỏ, chia làm 3 lần uống trong ngày, mỗi lần 0,5 hay 1g bột. (Diệp Quyết Tuyền).
Chữa đau bụng, tức ngực do lạnh: Địa liền 6g, Đinh hương 3g, Đương quy 3g, Cam thảo 3g. Tán bột, làm thành thuốc viên, uống với một ít rượu.
Kiêng kỵ: Âm hư, thiếu máu hoặc vị có hoả uất không dùng.
 
Cây thuốc Tu lình – Cây thuốc nhiều tên, chữa được nhiều bệnh
Có lẽ chưa có một cây thuốc nào mang đến 10 loại tên như cây cây Tu lình. Cây Tu lình còn có tên là cây Con khỉ, cây Hoàn ngọc, cây Nhật Nguyệt, cây Mặt trăng Mặt trời, cây Trạc Mã, cây Thận tượng linh, cây Mật quỷ, gần đây có tên là cây Lan Điền…
Tu lình vốn là cây mọc hoang trong rừng Cao Lạng, thân có bấc, mọc nhanh, một năm có thể mọc cao 30cm. Lá mềm, không xơ, hình lá thon dài, không cân đối, đuôi lá thường vẹo, mặt phải xanh sẫm hơi ráp, mặt trái xanh nhạt; lá mọc đối xứng tạo thành mắt, lá vàng dễ rụng.

Về mùa xuân, cây ra hoa thành từng chùm ở cuối cành, cuống hoa ngắn, ống hoa dài, tán hoa có 4 cánh nhỏ màu trắng tím nhạt, không thấy quả. Thân cây già màu xám nâu, rễ mọc chùm không có rễ cái.
Đặc tính:

Lá già vị đắng ngọt như có bột; lá non nhớt, không có mùi vị; vỏ và rễ có mùi vị như lá già. Dùng lá cây tươi chưa phát hiện có độc tố gì, có tác dụng kích thích thần kinh. Dùng nhiều có cảm giác như say nhẹ một thời gian ngắn. Ăn chín không gây phản ứng.
Công dụng:
Chữa các bệnh về đường tiêu hoá: Đi lỏng lỵ, rối loạn tiêu hoá, táo bón, đau bụng không rõ nguyên nhân.
Ăn từ 7 – 9 lá, khoảng 2 – 3 lần/ngày cho đến khi khỏi, có thể nấu canh nhạt để ăn.
Bệnh kèm theo chảy máu: Chảy máu dạ dày, đường ruột, đái ra máu, phân ra máu kể cả đái buốt và đái rắt…
Ăn lá khi đói hoặc sắc nước lá đặc để uống, có thể nấu canh độ 1 bát nhỏ. Ăn 1 – 5 lần máu sẽ cầm, nên ăn ngày 2 lần.
Các bệnh ung thư thời kỳ phát bệnh
Ăn lá xong cơn đau giảm dần, người tỉnh táo, ăn ngủ tốt, có cảm giác như khỏi bệnh. Qua một số bệnh ung thư dạ dày, gan, phổi… đều thấy có diễn biến tốt. Lượng lá dùng thường xuyên theo mức độ đau; thông thường ngày 2 lần mỗi lần 3 – 7 lá, tuỳ theo hiệu quả giảm đau.
Chữa các bệnh u ở phổi, tiền liệt tuyến
Liều lượng dùng như trên, sau 1 tuần các triệu chứng giảm hẳn, bệnh nhân ăn ngủ tốt. Riêng u xơ tiền liệt tuyến ăn vào cuối tháng, khoảng 3 tháng liên tục.
Các bệnh về gan: Xơ gan cổ trướng, viêm gan…
Ăn lá tươi như trên ngày 2 lần khi đói. Bột lá khô cùng với bột Tam thất theo tỷ lệ 1/1 là thuốc trị xơ gan cổ trướng đặc hiệu
Bệnh về thận: Viêm thận cấp hoặc mãn, suy thận, các hiện tượng đái đục, đái ra máu.
Điều trị như trên sau 1 tuần. Ăn 1 lần/ngày, nước giải chỉ trong được nửa ngày thì cần tăng lên 2 lần/ngày. Trong thời gian 1/2 tháng các triệu chứng bệnh giảm rõ rệt.
Chữa viêm loét: Loét dạ dày, hoành tá tràng, đại tràng, trĩ nội ngoại, trực tràng…
Ăn lá tươi khi đói (tốt nhất vào buổi sáng). Với các vết thương thuộc phạm vi dạ dày, chỉ cần ăn trong 1 tuần, tránh uống rượu mạnh. Khi chữa vết loét thuộc phần ruột, liều lượng cần nhiều hơn tuỳ theo nặng nhẹ.
Điều chỉnh huyết áp, ổn định thần kinh
Khi biến đổi huyết áp (cao hay thấp) theo liều lượng trên, ăn xong chợp mắt nghỉ trong thời gian ngắn, huyết áp sẽ trở lại bình thường; khi lên cơn rối loạn thần kinh thực vật, tuỳ theo mức độ để định liều lượng, có thể ăn vào buổi sáng giúp cơ thể ổn định trong ngày và đề phòng khi thời tiết thay đổi đột ngột.
Chữa về chấn thương:
Các loại chấn thương, đặc biệt chấn thương sọ não, va đập, gãy dập xương hay bắp thịt.
Lá thuốc có tác dụng cầm máu, khôi phục các mô cơ bị dập, chống viêm nhiễm, lá làm cả thuốc đắp và thuốc uống. Khi vết thương kín có thể nhai để đắp, vết thương hở nên giã để đắp.
Chữa cảm cúm
Nếu kéo theo rối loạn tiêu hoá, đau đầu, mệt mỏi nhiệt độ cao. Nên ăn lá cách 2 giờ, cơn sốt nhanh chóng hạ đồng thời rối loạn tiêu hoá cũng khỏi. Sau cơn sốt nên ăn cháo có lá thuốc trộn vào làm cho người bệnh mau chóng trở lại bình thường.
Khôi phục sức khoẻ:
Khi mệt mỏi toàn thân hoặc cần nâng cao sức chịu đựng cường độ cao, nên ăn như liều định 5 – 7 lá trước nửa giờ. Trẻ con đi lỏng nên lấy từ 1 – 2 lá giã lấy nước cho uống.
Trong thực tế có những bệnh phải dùng liều ở độ ngưỡng (gây phản ứng nhẹ) mới có tác dụng chữa bệnh tốt như bệnh viêm thần kinh co thắt.
Số lần dùng trong ngày có tác động đến làm chuyển biến bệnh tật. Những bệnh đau cấp cần duy trì một nồng độ cao hơn trong một thời gian nhất định để chế ngự bệnh tật. Thông thường nên ăn lá vào buổi sáng hoặc khi đói. Sau khi ăn lá nên chợp mắt 15 phút. Đây là giai đoạn thần kinh tự điều chỉnh, sau đấy trạng thái cơ thể trở nên sảng khoái, bệnh tật chuyển biến nhanh, nếu không có giai đoạn nghỉ ngơi này, kết quả sẽ kém hẳn.
 
Back
Top