Cây gáo vàng Đây là loại cây thân thuộc hầu hết ai cũng biết, có những gia đình trồng cây để lấy bóng râm nhưng nó lại mọc nhiều hơn trên các vùng đồi núi. Tận dụng những đặc điểm về dược học, trong đông y đã dùng thân cây để chữa bệnh.
Để chữa xơ gan cổ chướng từ cây gáo vàng người ta có thể sử dụng vỏ hay cả phần gỗ của thân cây. Có thể dùng tươi hay sắc khô để dùng dần. Vỏ và thân sau khi thu hoạch sẽ được xắt nhỏ, sau đó phơi khô từ 2 tới 3 nắng và để vào lọ kín. Mỗi khi dùng thì lấy ra một nắm nhỏ rồi sắc nước uống như các vị thuốc đông y. Có thể sử dùng thêm cỏ sữa và cỏ xước để việc chữa xơ gan cổ chướng từ cây gáo vàng đạt hiệu quả cao và nhanh chóng hơn.
Chữa xơ gan cổ chướng từ cây gáo vàng yêu cầu bạn phải có tính kiên trì. Vị thuốc này có tính lành, lại dễ kiếm, dễ chế biến nên được sử dụng khá phổ biến. Ngoài ra bạn nên kết hợp chung với chế độ ăn uống, nghỉ ngơi và làm theo hướng dẫn của thầy thuốc.
Gáo vàng là một loài cây xanh đa tác dụng.
Nó có cành nhánh mọc chếch ngang khiến tán lá tỏa rộng, khả năng che bóng tốt; hình thái cây, lá, hoa đều bắt mắt, nên được xem là loài cây xanh có giá trị tạo bóng và tôn tạo cảnh quan. Ngoài ra, gáo vàng là loài cho gỗ nhẹ, màu gỗ sáng, dễ gia công, thường được dùng làm đồ gia dụng, xây dựng, làm nguyên liệu giấy… Ở Huế, nhiều cơ sở mộc mỹ nghệ dùng gỗ gáo vàng để đóng tủ thờ, nhái tủ mít.
Nhiều cơ quan, bộ phận của gáo vàng còn được dùng trong y học: Lá được dùng trị mụt nhọt và ung bướu; Vỏ được sắc lấy nước trị tiêu chảy và đau răng, dùng như một thành phần dược dụng để kiểm soát sinh đẻ; Quả được dùng trị ho, cảm lạnh, đau dạ dày và tiêu chảy, thổ dân vùng Bắc Queensland dùng quả gáo vàng để ép lấy nước làm thức uống cho trẻ con; Hoa là nguồn mật và phấn hấp dẫn nhiều loài ong… Gáo là cây mọc nhanh rất thích hợp cho việc trồng rừng nguyên liệu.
Mô tả cây
Cây gỗ to cao, cành non màu nâu đậm, nhẵn, sau màu xám trắng. Phiến lá hình trái xoan, dài 8 – 25cm. Tù ở đỉnh, tròn và hình tim ở gốc phiến lá, màu lục bóng ở mặt trên, màu nâu nhạt ở mặt dưới. Cuống khía rãnh ở trên màu nâu nhạt ở mặt dưới. Cuống khía rãnh ở mặt trên, lá kèm hình trái xoan, dài hay bầu dục tù và tròn ở đỉnh. Hoa tập trung thành hình đầu, đơn độc ở đầu cành. Hoa vàng hay trắng, mùi thơm. Đài 5, tròn ở đỉnh, nhẵn, ống dái nhẵn, ngắn. Tràng 5, hình bầu dục ngược, nhẵn, ống tràng, chỉ rất ngắn, bao phấn tù ở đỉnh. Bầu 2 ô, nhiều noãn. Quả dính lại với nhau thành một khối, hình cầu, mỗi quả 2 ô, mỗi ô chứa 5 – 8 hạt. Hoa nở vào tháng 3, quả chín vào tháng 7.
Phân bố, thu hái và chế biến
Cây phân bố ở khắp nước ta, nhiều ở miền Nam. Thường thích ẩm và thấy mọc ở khe suối, chân đồi.
Thường nhân dân bóc vỏ cây dùng tươi hay phơi khô dùng dần. Có nơi lấy cả gỗ, chẻ nhỏ phơi khô, có màu vàng nhạt vị rất đắng.
Ở nước ta có nơi khai thác vỏ và gỗ cây Sarcocephalus officinalis Pierre với tên Hoàng bá (thực tế là cây khác).
Tại vùng tây châu Phi thuộc Sudang người ta dùng vỏ cây Sarcocephalus escudentus Afz với tên douandake làm thuốc bổ, chữa sốt gần như vỏ cây canhkina do đó vỏ cây này còn mang tên vỏ canhkina châu Phi. Ở nứơc Ghinê người ta còn dùng vỏ cây S. pobeguini.
Công dụng và liều dùng
Vỏ gáo được nhân dân dùng làm thuốc chữa sốt dưới dạng thuốc sắc với liều 10 – 16g. Có thể dùng gỗ gáo thái mỏng, cũng sắc như vỏ gáo.
Đơn thuốc có vỏ gáo chữa xơ gan cổ trướng:
Vỏ gáo, cỏ sữa lớn lá, cỏ xước toàn cây. Ba vị bằng nhau, mỗi vị 10g. Sắc uống trong ngày. dùng liền trong 10 – 15 ngày (Kinh nghiệm nhân dân).
Gỗ gáo được đóng đồ đặc thông thường.
Chú thích:
Ở nước ta còn một cây khác cũng tên là gáo hay phây vi, hoặc thkeou có tên khoa học là Anthocephalus indicus A. Rich. Cùng họ Cà phê (Rubiaceae). Đây cũng là cây gỗ lớn, mọc thẳng đứng tán hình chóp.
Cành non có cạnh, màu nâu sẫm, sau tròn màu xám. Lá hình trái xoan thuôn hay hình trứng, nhọn đầu, bóng và nâu đậm ở mặt trên, nâu sáng ở mặt dưới, dai cuống lá dai, mặt trên phẳng, lá kèm hình giáo dễ rụng. Hoa tập trung thành hình đầu, trìn, đơn độc ở đầu cành. Hoa màu da cam.
Đài 5, tù, nhẵn, tràng 5, nhẵn, tiền khai lợp, ống tràng hẹp, nhẵn hơi loe ra ở phía trên, nhị 5, chỉ nhị rất ngắn dính vào họng tràng, bao phấn có mũi dài. Bầu có 4 ô đỉnh, ở gốc thì 2 ô, nhiều noãn. Quả khô, dai gốc hơi nạc. Hạt màu đen nhạt, có cạnh phôi cuộn, nội nhũ nạc. Hoa nở vào tháng 3, quả chín vào tháng 9 – 10.
Một số thành phố dùng trồng làm bóng mát, gỗ màu trắng dùng xây dựng hay đóng đồ đặc. Một số vùng như Quảng Ninh (Tiên Yên) dùng sắc vỏ chữa sốt, chữa ho, thuốc bổ. Tại Ấn Độ nhân dân cũng dùng vỏ làm thuốc và thuốc bổ. Lá sắc dùng súc miệng, quả chát dùng chữa đi ỉa lỏng. Vỏ còn nhuộm đen, màu bền.
Nhiều nghiên cứu cũng cho thấy chất naucleaorine và dẫn xuất của nó được chiết xuất từ cây gáo vàng trị được bệnh sốt rét; một số alcaloid ở vỏ cây gáo vàng có khả năng trị được ung thư biểu mô bọng nước tiểu ở người.
Theo tôi, đây là một nguồn gen bản địa quý, cần được bảo tồn và phát triển trong chương trình quy hoạch cây xanh đô thị và trồng rừng kinh tế.
Liên hệ để mua bán giống cây thiên ngân
SĐT:0969363493
ZALO: 0969363493
Để chữa xơ gan cổ chướng từ cây gáo vàng người ta có thể sử dụng vỏ hay cả phần gỗ của thân cây. Có thể dùng tươi hay sắc khô để dùng dần. Vỏ và thân sau khi thu hoạch sẽ được xắt nhỏ, sau đó phơi khô từ 2 tới 3 nắng và để vào lọ kín. Mỗi khi dùng thì lấy ra một nắm nhỏ rồi sắc nước uống như các vị thuốc đông y. Có thể sử dùng thêm cỏ sữa và cỏ xước để việc chữa xơ gan cổ chướng từ cây gáo vàng đạt hiệu quả cao và nhanh chóng hơn.
Chữa xơ gan cổ chướng từ cây gáo vàng yêu cầu bạn phải có tính kiên trì. Vị thuốc này có tính lành, lại dễ kiếm, dễ chế biến nên được sử dụng khá phổ biến. Ngoài ra bạn nên kết hợp chung với chế độ ăn uống, nghỉ ngơi và làm theo hướng dẫn của thầy thuốc.
Gáo vàng là một loài cây xanh đa tác dụng.
Nó có cành nhánh mọc chếch ngang khiến tán lá tỏa rộng, khả năng che bóng tốt; hình thái cây, lá, hoa đều bắt mắt, nên được xem là loài cây xanh có giá trị tạo bóng và tôn tạo cảnh quan. Ngoài ra, gáo vàng là loài cho gỗ nhẹ, màu gỗ sáng, dễ gia công, thường được dùng làm đồ gia dụng, xây dựng, làm nguyên liệu giấy… Ở Huế, nhiều cơ sở mộc mỹ nghệ dùng gỗ gáo vàng để đóng tủ thờ, nhái tủ mít.
Nhiều cơ quan, bộ phận của gáo vàng còn được dùng trong y học: Lá được dùng trị mụt nhọt và ung bướu; Vỏ được sắc lấy nước trị tiêu chảy và đau răng, dùng như một thành phần dược dụng để kiểm soát sinh đẻ; Quả được dùng trị ho, cảm lạnh, đau dạ dày và tiêu chảy, thổ dân vùng Bắc Queensland dùng quả gáo vàng để ép lấy nước làm thức uống cho trẻ con; Hoa là nguồn mật và phấn hấp dẫn nhiều loài ong… Gáo là cây mọc nhanh rất thích hợp cho việc trồng rừng nguyên liệu.
Mô tả cây
Cây gỗ to cao, cành non màu nâu đậm, nhẵn, sau màu xám trắng. Phiến lá hình trái xoan, dài 8 – 25cm. Tù ở đỉnh, tròn và hình tim ở gốc phiến lá, màu lục bóng ở mặt trên, màu nâu nhạt ở mặt dưới. Cuống khía rãnh ở trên màu nâu nhạt ở mặt dưới. Cuống khía rãnh ở mặt trên, lá kèm hình trái xoan, dài hay bầu dục tù và tròn ở đỉnh. Hoa tập trung thành hình đầu, đơn độc ở đầu cành. Hoa vàng hay trắng, mùi thơm. Đài 5, tròn ở đỉnh, nhẵn, ống dái nhẵn, ngắn. Tràng 5, hình bầu dục ngược, nhẵn, ống tràng, chỉ rất ngắn, bao phấn tù ở đỉnh. Bầu 2 ô, nhiều noãn. Quả dính lại với nhau thành một khối, hình cầu, mỗi quả 2 ô, mỗi ô chứa 5 – 8 hạt. Hoa nở vào tháng 3, quả chín vào tháng 7.
Phân bố, thu hái và chế biến
Cây phân bố ở khắp nước ta, nhiều ở miền Nam. Thường thích ẩm và thấy mọc ở khe suối, chân đồi.
Thường nhân dân bóc vỏ cây dùng tươi hay phơi khô dùng dần. Có nơi lấy cả gỗ, chẻ nhỏ phơi khô, có màu vàng nhạt vị rất đắng.
Ở nước ta có nơi khai thác vỏ và gỗ cây Sarcocephalus officinalis Pierre với tên Hoàng bá (thực tế là cây khác).
Tại vùng tây châu Phi thuộc Sudang người ta dùng vỏ cây Sarcocephalus escudentus Afz với tên douandake làm thuốc bổ, chữa sốt gần như vỏ cây canhkina do đó vỏ cây này còn mang tên vỏ canhkina châu Phi. Ở nứơc Ghinê người ta còn dùng vỏ cây S. pobeguini.
Công dụng và liều dùng
Vỏ gáo được nhân dân dùng làm thuốc chữa sốt dưới dạng thuốc sắc với liều 10 – 16g. Có thể dùng gỗ gáo thái mỏng, cũng sắc như vỏ gáo.
Đơn thuốc có vỏ gáo chữa xơ gan cổ trướng:
Vỏ gáo, cỏ sữa lớn lá, cỏ xước toàn cây. Ba vị bằng nhau, mỗi vị 10g. Sắc uống trong ngày. dùng liền trong 10 – 15 ngày (Kinh nghiệm nhân dân).
Gỗ gáo được đóng đồ đặc thông thường.
Chú thích:
Ở nước ta còn một cây khác cũng tên là gáo hay phây vi, hoặc thkeou có tên khoa học là Anthocephalus indicus A. Rich. Cùng họ Cà phê (Rubiaceae). Đây cũng là cây gỗ lớn, mọc thẳng đứng tán hình chóp.
Cành non có cạnh, màu nâu sẫm, sau tròn màu xám. Lá hình trái xoan thuôn hay hình trứng, nhọn đầu, bóng và nâu đậm ở mặt trên, nâu sáng ở mặt dưới, dai cuống lá dai, mặt trên phẳng, lá kèm hình giáo dễ rụng. Hoa tập trung thành hình đầu, trìn, đơn độc ở đầu cành. Hoa màu da cam.
Đài 5, tù, nhẵn, tràng 5, nhẵn, tiền khai lợp, ống tràng hẹp, nhẵn hơi loe ra ở phía trên, nhị 5, chỉ nhị rất ngắn dính vào họng tràng, bao phấn có mũi dài. Bầu có 4 ô đỉnh, ở gốc thì 2 ô, nhiều noãn. Quả khô, dai gốc hơi nạc. Hạt màu đen nhạt, có cạnh phôi cuộn, nội nhũ nạc. Hoa nở vào tháng 3, quả chín vào tháng 9 – 10.
Một số thành phố dùng trồng làm bóng mát, gỗ màu trắng dùng xây dựng hay đóng đồ đặc. Một số vùng như Quảng Ninh (Tiên Yên) dùng sắc vỏ chữa sốt, chữa ho, thuốc bổ. Tại Ấn Độ nhân dân cũng dùng vỏ làm thuốc và thuốc bổ. Lá sắc dùng súc miệng, quả chát dùng chữa đi ỉa lỏng. Vỏ còn nhuộm đen, màu bền.
Nhiều nghiên cứu cũng cho thấy chất naucleaorine và dẫn xuất của nó được chiết xuất từ cây gáo vàng trị được bệnh sốt rét; một số alcaloid ở vỏ cây gáo vàng có khả năng trị được ung thư biểu mô bọng nước tiểu ở người.
Theo tôi, đây là một nguồn gen bản địa quý, cần được bảo tồn và phát triển trong chương trình quy hoạch cây xanh đô thị và trồng rừng kinh tế.
Liên hệ để mua bán giống cây thiên ngân
SĐT:0969363493
ZALO: 0969363493
- Địa chỉ
- tam đảo
- Số điện thoại
- 0981071268