là loại cây thảo lớn, thuộc họ cúc, sống 2 năm, có thân thẳng, cao 1-2 m. Lá hình trái xoan, mọc thành hìn Ngưu h hoa thị ở gốc và so le ở trên thân, phiến lá to, rộng. Hoa đỏ hay tím nhạt. Cây cho các vị thuốc như ngưu bàng tử, ngưu bàng căn (rễ phơi hay sấy khô).
Ngưu bàng tử vị cay, đắng, tính hàn, có tác dụng trừ phong nhiệt, thanh nhiệt, giải độc, thông phổi, làm mọc ban chẩn, tiêu thũng và sát trùng. Những người tỳ vị hư hàn, tiêu chảy không nên dùng. Ngưu bàng căn vị đắng, cay, tính hàn, có tác dụng lợi tiểu, làm ra mồ hôi, lợi mật, nhuận tràng, hạ đường huyết, có tác dụng với một số bệnh ngoài da.
Đông y chỉ dùng ngưu bàng tử để chữa một số bệnh:
Viêm họng, đậu chẩn chậm mọc, sốt nóng: Ngưu bàng tử 8 g, cát cánh 6 g, kinh giới tuệ 6 g, cam thảo 3 g; sắc uống trong ngày. Nếu đậu chẩn đã mọc thì vẫn uống được; nhưng không dùng cho người bị tiêu chảy, tỳ vị hư hàn.
Thủy thũng, chân tay phù và cảm mạo: Ngưu bàng tử 8 g sao vàng tán bột, chia uống 3 lần trong ngày, uống với nước nóng.
Phù thận cấp: Ngưu bàng tử 8 g (dùng nửa sống, nửa chín), bèo cái 8 g. Trộn chung tán nhỏ, chia uống 3 lần trong ngày, uống với nước nóng.
Cảm cúm: Ngưu bàng tử, cát cánh, bạc hà mỗi thứ 24 g, kim ngân, liên kiều mỗi thứ 40 g, cam thảo, đạm đậu xị mỗi thứ 20 g, hoa kinh giới 16 g, lá tre 4 g. Tán bột, lấy 24 g hãm với nước sôi để uống, ngày 3-4 lần tùy theo bệnh nặng nhẹ.
Tây y dùng ngưu bàng căn làm thuốc thông tiểu, ra mồ hôi, lọc máu khi bị tê thấp, sưng đau các khớp và bệnh ngoài da. Người Đức sử dụng rễ ngưu bàng để trị rối loạn tiêu hóa, đau dạ dày và ruột, gút, thấp khớp hoặc làm ra mồ hôi, lợi tiểu, lọc máu; vừa uống vừa bôi trị ngứa, vảy nến, chàm, nhiễm trùng da...
Canh dưỡng sinh gồm ngưu bàng căn, cà rốt, nấm hương được coi là thuốc chữa bách bệnh, có khả năng ngăn ngừa và trị một số bệnh ung thư.
Tên khoa học là Arctium lappa L.
Quả ngưu bàng thường gọi là ngưu bàng tử có vị cay, đắng, tính hàn có tác dụng trừ phong, tán nhiệt, thông phổi làm mọc ban chẩn, tiêu thũng, giải độc, sát trùng. Rễ cây có vị đắng, cay, tính hàn có tác dụng lợi tiểu (loại được axit uric), khử lọc, làm ra mồ hôi, lợi mật, nhuận tràng, chống giang mai, trị đái tháo đường, diệt trùng và chống nọc độc.
Cây ngưu bàng đã được sử dụng ở nước ta từ lâu. Trong Bản thảo Nam dược, lương y Nguyễn Hoành đã nói đến việc sử dụng lá ngưu bàng non gọi là rau cẩm bình nấu canh ăn rất tốt, hạt (quả) chữa phong lở, mày đay, sình bụng.
Trong y học phương Đông, quả của ngưu bàng dùng làm thuốc lợi tiểu, giải nhiệt, trị được phù thũng, đau họng, sưng họng, phế viêm, cảm cúm, tinh hồng nhiệt. Đối với mụn nhọt đã có mủ và viêm tuyến lâm ba, dùng quả cây có tác dụng thúc mủ nhanh, với đậu chẩn cũng làm cho chóng mọc bằng cách dùng 6-10g một ngày, dưới dạng thuốc sắc uống, dùng riêng hay phối hợp với các vị thuốc khác.
Rễ ngưu bàng cũng dùng trị mụn nhọt, cụm nhọt, áp xe, nấm da, hắc lào, eczema, loét mất trương lục, viêm hạch, vết thương có mủ, dùng dưới dạng nước sắc với tỉ lệ 40g một lít nước. Bên ngoài dùng lá tươi giã đắp trị nọc độc rắn cắn, đắp trị bệnh về phổi mãn tính, cúm kéo dài và các chứng đau khác hoặc dùng tươi nấu nước rửa bên ngoài.
Tây y dùng rễ cây hái vào mùa xuân làm thuốc thông tiểu, trị chứng ra mồ hôi, tẩy máu dùng trong các bệnh tê thấp, đau và sưng khớp, bệnh ngoài da. Ngoài ra, còn dùng cho người bị đái ra đường vì cao rễ ngưu bàng có tác dụng hạ glucoza trong máu. Cuống và thân cây dùng làm thức ăn làm tăng lượng glycogen trong gan.
Có thể dùng rễ cây với liều ổn định lâu dài để chữa mụn nhọt với liều 0,60g cao thuốc một lần, mỗi ngày dùng 3 lần. Ngoài ra, người Châu Âu còn dùng lá non và thân cây, có khi dùng cả rễ đem giã nhỏ rồi đắp vào nơi rắn độc, sâu bọ, ong, muỗi và rết cắn, có lẽ do tác dụng của men oxydaza có nhiều trong lá và thân.
Ngưu bàng tử vị cay, đắng, tính hàn, có tác dụng trừ phong nhiệt, thanh nhiệt, giải độc, thông phổi, làm mọc ban chẩn, tiêu thũng và sát trùng. Những người tỳ vị hư hàn, tiêu chảy không nên dùng. Ngưu bàng căn vị đắng, cay, tính hàn, có tác dụng lợi tiểu, làm ra mồ hôi, lợi mật, nhuận tràng, hạ đường huyết, có tác dụng với một số bệnh ngoài da.
Đông y chỉ dùng ngưu bàng tử để chữa một số bệnh:
Viêm họng, đậu chẩn chậm mọc, sốt nóng: Ngưu bàng tử 8 g, cát cánh 6 g, kinh giới tuệ 6 g, cam thảo 3 g; sắc uống trong ngày. Nếu đậu chẩn đã mọc thì vẫn uống được; nhưng không dùng cho người bị tiêu chảy, tỳ vị hư hàn.
Thủy thũng, chân tay phù và cảm mạo: Ngưu bàng tử 8 g sao vàng tán bột, chia uống 3 lần trong ngày, uống với nước nóng.
Phù thận cấp: Ngưu bàng tử 8 g (dùng nửa sống, nửa chín), bèo cái 8 g. Trộn chung tán nhỏ, chia uống 3 lần trong ngày, uống với nước nóng.
Cảm cúm: Ngưu bàng tử, cát cánh, bạc hà mỗi thứ 24 g, kim ngân, liên kiều mỗi thứ 40 g, cam thảo, đạm đậu xị mỗi thứ 20 g, hoa kinh giới 16 g, lá tre 4 g. Tán bột, lấy 24 g hãm với nước sôi để uống, ngày 3-4 lần tùy theo bệnh nặng nhẹ.
Tây y dùng ngưu bàng căn làm thuốc thông tiểu, ra mồ hôi, lọc máu khi bị tê thấp, sưng đau các khớp và bệnh ngoài da. Người Đức sử dụng rễ ngưu bàng để trị rối loạn tiêu hóa, đau dạ dày và ruột, gút, thấp khớp hoặc làm ra mồ hôi, lợi tiểu, lọc máu; vừa uống vừa bôi trị ngứa, vảy nến, chàm, nhiễm trùng da...
Canh dưỡng sinh gồm ngưu bàng căn, cà rốt, nấm hương được coi là thuốc chữa bách bệnh, có khả năng ngăn ngừa và trị một số bệnh ung thư.
Tên khoa học là Arctium lappa L.
Quả ngưu bàng thường gọi là ngưu bàng tử có vị cay, đắng, tính hàn có tác dụng trừ phong, tán nhiệt, thông phổi làm mọc ban chẩn, tiêu thũng, giải độc, sát trùng. Rễ cây có vị đắng, cay, tính hàn có tác dụng lợi tiểu (loại được axit uric), khử lọc, làm ra mồ hôi, lợi mật, nhuận tràng, chống giang mai, trị đái tháo đường, diệt trùng và chống nọc độc.
Cây ngưu bàng đã được sử dụng ở nước ta từ lâu. Trong Bản thảo Nam dược, lương y Nguyễn Hoành đã nói đến việc sử dụng lá ngưu bàng non gọi là rau cẩm bình nấu canh ăn rất tốt, hạt (quả) chữa phong lở, mày đay, sình bụng.
Trong y học phương Đông, quả của ngưu bàng dùng làm thuốc lợi tiểu, giải nhiệt, trị được phù thũng, đau họng, sưng họng, phế viêm, cảm cúm, tinh hồng nhiệt. Đối với mụn nhọt đã có mủ và viêm tuyến lâm ba, dùng quả cây có tác dụng thúc mủ nhanh, với đậu chẩn cũng làm cho chóng mọc bằng cách dùng 6-10g một ngày, dưới dạng thuốc sắc uống, dùng riêng hay phối hợp với các vị thuốc khác.
Rễ ngưu bàng cũng dùng trị mụn nhọt, cụm nhọt, áp xe, nấm da, hắc lào, eczema, loét mất trương lục, viêm hạch, vết thương có mủ, dùng dưới dạng nước sắc với tỉ lệ 40g một lít nước. Bên ngoài dùng lá tươi giã đắp trị nọc độc rắn cắn, đắp trị bệnh về phổi mãn tính, cúm kéo dài và các chứng đau khác hoặc dùng tươi nấu nước rửa bên ngoài.
Tây y dùng rễ cây hái vào mùa xuân làm thuốc thông tiểu, trị chứng ra mồ hôi, tẩy máu dùng trong các bệnh tê thấp, đau và sưng khớp, bệnh ngoài da. Ngoài ra, còn dùng cho người bị đái ra đường vì cao rễ ngưu bàng có tác dụng hạ glucoza trong máu. Cuống và thân cây dùng làm thức ăn làm tăng lượng glycogen trong gan.
Có thể dùng rễ cây với liều ổn định lâu dài để chữa mụn nhọt với liều 0,60g cao thuốc một lần, mỗi ngày dùng 3 lần. Ngoài ra, người Châu Âu còn dùng lá non và thân cây, có khi dùng cả rễ đem giã nhỏ rồi đắp vào nơi rắn độc, sâu bọ, ong, muỗi và rết cắn, có lẽ do tác dụng của men oxydaza có nhiều trong lá và thân.