Phân lợn-phân bón ao có hiệu quả trong nuôi cá

  • Thread starter Guest
  • Ngày gửi
Nuôi trồng thuỷ sản bền vững là xây dựng hệ thống nuôi gắn với bảo vệ môi trường sinh thái và có hiệu quả kinh tế. Việc tái sử dụng các chất thải hữu cơ trong nuôi cá đáp ứng cả hai mục đích là làm sạch môi trường và giảm chí phí để sử dụng phân hoá học (thông thường chiếm khoảng hơn 50% tổng chi phí). Tuy nhiên, việc sử dụng tuỳ tiện các loại phân bón trong ao hồ nuôi cá có thể gây ô nhiễm môi trường. Bởi vậy, người nuôi cần phải biết các tiêu chuẩn sử dụng chất thải này qua các thông số hoá lý của nước ao hồ để đảm bảo tỷ lệ sống và tăng trưởng cao của cá

Nghiên cứu được tiến hành tại trại nuôi cá của đại học Nông nghiệp Punjab, Ludhiana trong thời gian 270 ngày (từ tháng 9/1997 đến 6/1998). Phân lợn đã được sử dụng trong nuôi ghép các loài thuộc họ cá chép như một nguồn phân bón tốt với mức 18T/ha/năm và 36 T/ha/năm cho một đợt nuôi khoảng 270 ngày mà không cần cho ăn thức ăn bổ sung. Quan sát cho thấy phân lợn không làm biến đổi các thông số hoá sinh của nước như độ pH, mức ôxy hoà tan và độ kiềm. Hàm lượng các chất dinh dưỡng trong nước (photphat và nitrat) trong các ao hồ được bón phân lợn cao hơn các ao đối chứng (không bón phân, chỉ cho ăn bổ sung). Ngoài ra, mật độ phù du sinh vật cũng cao hơn đáng kể. Tốc độ tăng trưởng của cá Catla, cá trôi ấn Ðộ cũng cao hơn rõ rệt. Cá Mrigal và cá chép thường trong ao được bón phân ở mức 18 t/ha/năm cũng lớn nhanh, nhưng cá trắm cỏ lại lớn nhanh hơn trong ao nuôi đối chứng với ao có bón phân.
<i>Chuẩn bị bể</i>
Thí nghiệm được thực hiện với bể xi măng diện tích 20m<sup>2</sup>, độ sâu 1m. Dưới đáy các bể có một lớp đất mỏng. Tất cả các bể được lắp đặt đường ống cấp nước và thải nước.
<i>Bón phân cho bể</i>
Phân lợn được sử dụng ở mức 18 (PM18) và 36 (PM36) t/ha/năm, tương ứng với mức 34,5 và 69,0 g/m<sup>2</sup>/tuần trong suốt quá trình thử nghiệm. Cá được nuôi theo hai cách. Cách thứ nhất là cho ăn đối chứng, không bón phân vào ao và cá được cho ăn thêm thức ăn chứa 50% cám gạo và 50% bánh dầu mù tạc đã khử dầu ở mức chiếm 2% sinh khối cá. Cả hai phương pháp bón phân và đối chứng được tiến hành 3 lần.
<i>Thả giống</i>
Mỗi bể nuôi thả các loài cá bột khác nhau (2 con/m<sup>2</sup>): số cá thả gồm 8 cá Catla (Catla catla), 10 cá trôi ấn (Labeo rohita), 8 Mrigal (Cirrhinus cirrhosus), 8 cá chép thường (Cyprinus carpio) và 6 cá trắm cỏ (Ctenopharyngodon idellus) vào tháng 9 năm 1997. Trọng lượng của các loài cá tại thời điểm thả giống là cá Catla: 3,5-5,0 g; cá trôi ấn: 5,0-12.0 g; cá Mrigal: 2,5-3.0 g; cá chép: 2,0-2,7 g và cá trắm cỏ: 2,2-2,7 g.
<i>Quan sát số liệu</i>
Hằng tháng nước trong bể được phân tích vào khoảng 7-8 giờ sáng để đo các thông số lý hoá gồm: nhiệt độ, độ pH, CO<sub>2</sub> tự do, kiềm phenolphtalein, kiềm methyl da cam và các loại kiềm, lượng photphat hoà tan trong nước và nitrat-nitơ. Hằng tháng cũng tiến hành phân tích số lượng và chất lượng phù du thực vật và phù du động vật. Mẫu cá được theo dõi hằng tháng, ghi lại tốc độ tăng trưởng và ước tính tổng trọng lượng (TWG) và tỉ lệ tăng trưởng đặc biệt (SGR) .
Trong 270 ngày nuôi, nhiệt độ nước dao động từ 12 đến 35<sup>o</sup>C. Các thông số lý hoá cuả nước đóng vai trò đặc biệt trong sinh học và sinh lý cá. Trong nghiên cứu này, các thông số lý hoá của nước trong cả hai hình thức nuôi đều duy trì trong khoảng cho phép đáp ứng yêu cầu nuôi. Sự khác nhau giữa các thông số lý hóa ở hai phương pháp nuôi này là không lớn. Ðiều này gợi ý rằng nếu bón một lượng phân lợn lớn hơn (36 T/ha/năm) cũng không có ảnh hưởng xấu tới các thông số lý hoá của nước. Thậm chí trong trường hợp có một lượng chất hữu cơ đáng kể chiết ra từ phân lợn cũng không làm giảm nồng độ ôxy hoà tan trong nước. Nồng độ nitrat-nitơ trong nước không khác nhau đáng kể giữa các phương pháp nuôi. Tuy nhiên, lượng photphat hòa tan trong nước ở phương pháp nuôi có bón phân cao hơn trong phương pháp nuôi cho ăn thêm. Ðiều này có lẽ là do sự có mặt của photphat trong phân lợn.
Năng suất sinh học của bất kỳ cơ thể thuỷ sinh nào cũng được đánh giá chung qua chất lượng và số lượng của sinh vật phù du vốn là thức ăn tự nhiên của cá. Chất thải động vật làm tăng khả năng sinh học của ao hồ qua các cách khác nhau dẫn tới sự tăng sản lượng cá. Trong nghiên cứu này, các thông số sinh học của nước bao gồm các sinh vật phù du và các nhóm tảo lam và tảo lục (riêng tảo Silic ít hơn nhiều trong ao có bón phân) và lượng phù du động vật trong ao bón phân lợn cao hơn nhiều trong ao đối chứng. Ðiều này có thể do lượng photphat có trong phân lợn hoà tan trong nước cao hơn. Tuy nhiên, không có sự khác biệt lớn về sức sản xuất của ao hồ giữa hai mức bón phân lợn. Sức sản xuất của phù du sinh vật trong các hồ tái sử dụng phân lợn cao góp phần tạo năng suất của ao tiếp tục cao trong một thời gian dài. Phân lợn cung cấp cho phù du động vật nguồn thức ăn bổ sung từ vi khuẩn có từ nguồn phân hữu cơ. Thành phần của phân lợn ảnh hưởng tới cấu trúc quần thể sinh vật phù du, trong số thực vật phù du, tảo lam là nhóm chiếm ưu thế, tiếp theo là tảo lục, còn tảo silic có rất ít. Trong số phù du động vật, luân trùng là nhóm nhiều nhất, theo sau là lớp phụ chân chèo và lớp râu ngành ở tất cả các loại hình nuôi.
<i>Mức tăng trưởng của các loài cá nuôi khác nhau như sau</i>
Ðối với cá Catla và cá trôi ấn, mức TWG, SGR ở ao sử dụng phân lợn cao hơn nhiều so với nuôi trong ao đối chứng. Trong khi đó đối với cá Mrigal (Cirrhinus cirrhosus) và cá chép thường (Cyprinus carpio) mức TWG và SGR trong ao đối chứng lại cao hơn nhiều và ao PM18 cao hơn ao PM36. Sức tăng trưởng cao của các loại cá chép này trong ao bón phân lợn có thể là do trong các ao này có nhiều nguồn thức ăn hơn. Ngoài ra, một vài loại cá chép thậm chí còn nuốt thẳng các mảnh không tiêu hoá được có lẫn trong các loại phân bón. Các mảnh thức ăn này tuy có giá trị dinh dưỡng thấp nhưng các vi sinh vật bám vào chúng lại có lượng protein cao. Hơn nữa, việc cho ăn trực tiếp phân lợn có thể làm cho cá chép tăng trưởng mạnh hơn vì hơn 70% lượng thức ăn của lợn vẫn chưa được tiêu hoá và giàu dinh dưỡng. Tuy nhiên, phân lợn ở cả hai mức sử dụng trong nghiên cứu này lại không có kết quả tốt như dự kiến đối với sự tăng trưởng của cá trắm cỏ vì chúng là loại ăn cỏ.
Naga, The ICLARM Quaterly (Vol.25, no.1)
 


Last edited:


Back
Top