Mình có đọc qua bài viết này và có lưu lại, mình gửi cho các ACE xem để biết thêm về Sừng Tê Giác.
CÔNG DỤNG VÀ CÁCH PHÂN BIỆT SỪNG TÊ GIÁC
(ThS. Hoàng Khánh Toàn - Trưởng Khoa YHCT - Bệnh viện 108)
Dược liệu sừng tê giác có hình chùy tròn hoặc hơi có cạnh, đầu múp tầy hoặc nhọn và hơi xiên, dài 20-25cm, mặt ngoài màu đen, nhạt dần về phía dưới. Đế sừng có răng cưa nhỏ gọi là “mã nha biên”, lồi lõm không đều. Quanh mã nha ở phần giữa có những vân dọc và gai cứng thẳng chưa gọt hết gọi là “cương mao”. Đầu sừng nhỏ, nhẵn bóng, mặt trước sừng có một rãnh dọc, dài 12 - 16cm, dưới đó có một u lồi gọi là “địa cương” dài khoảng 8cm, cao 4cm. Đế sừng to, hình tròn dài, phía trước hẹp, phía sau rộng hình mai rùa, dài 14 - 24cm, rộng 12 - 16cm, màu xám đen hoặc nâu đen, nhạt dần ra phía ngoài thành màu nâu xám hoặc vàng xám, đáy lõm sâu khoảng 0,4 - 0,8cm, có nhiều chấm tròn dày đặc gọi là “sa đê”. Chất sừng cứng rắn và nặng, thớ dọc đều, không có thớ vặn, chỉ có thể chẻ dọc. Phiến chẻ có màu trắng xám, điểm lấm tấm như hạt vừng hoặc có những đường chỉ nhỏ ngắn. Loại sừng tốt có màu đen bóng, không nứt, sa đê tròn to, mùi thơm nhẹ.
Nghiên cứu thành phần hóa học của sừng tê giác người ta thấy chủ yếu là keratin, ngoài ra còn có canxi cacbonat, canxi photphat. Khi thủy phân, sừng tê giác sẽ cho các axit amin như tyrosin, axit tiolactic, cystein.
Theo y học cổ truyền, sừng tê giác vị chua mặn, tính lạnh, vào được hai đường kinh tâm và can, có công dụng thanh nhiệt lương huyết, trấn kinh giải độc, giảm đau và cầm máu, được xếp vào nhóm thuốc thanh nhiệt lương huyết. Sừng tê giác thường được dùng để chữa các chứng bệnh sốt quá hóa điên cuồng, co giật, sốt vàng da, ban chẩn, thổ huyết, chảy máu cam, ung độc, hậu bối. Những người không phải đại nhiệt, không có ôn độc và phụ nữ có thai không được dùng.
SỪNG TÊ GIÁC KHÔNG PHẢI LÀ SẢN PHẨM TOÀN NĂNG.
(BS. Nguyễn Văn Dũng – Trưởng phòng cấp đăng ký và chứng nhận, Cục An toàn vệ sinh thực phẩm, Bộ Y tế)
Sừng tê giác thường được sử dụng để thanh nhiệt, giải độc. Uống nước mài từ sừng tê giác còn giúp hưng phấn cơ tim. Sử dụng sừng tê giác có tác dụng nhanh, đồng thời đây vẫn là vị thuốc đặc hiệu. Tuy nhiên, dù là vị thuốc gì thì vẫn phải dùng đúng cách mới phát huy hiệu quả. Người dân muốn sử dụng sừng tê giác phải có sự hướng dẫn của thầy thuốc. Không sử dụng sừng tê giác chung với những thực phẩm giàu tính hàn.
Người ta có thể phân biệt sừng tê giác với sừng trâu vì sừng trâu rất cứng, chỉ có thể mài được chứ không thể bóc tách được. Còn với sừng tê giác người ta có thể bóc tách được, tựa như bóc tách xơ của quả dừa. Khi đi mua sản phẩm, người dân nên lưu ý để không phải bỏ tiền thật mua sản phẩm dởm, vì phải mất một khoản tiền lớn (giá của mỗi lạng sừng tê giác bây giờ khoảng 2.000-3.000USD).
CHƯA CÓ KẾT LUẬN NÀO SỪNG TÊ GIÁC TỐT CHO NAM GIỚI.
(GS. Hoàng Bảo Châu, nguyên Viện trưởng Viện Y học cổ truyền Việt Nam)
Theo y học cổ truyền, sừng tê giác có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, an thần. Theo thực nghiệm của y học hiện đại, sừng tê giác có tác dụng cường tim, làm giảm sau đó làm tăng bạch cầu, hạ nhiệt, an thần, tác dụng tốt đối với các trường hợp sốt cao, co giật, phát ban, chữa sung huyết, chảy máu cam, sốt vàng da, ung nhọt... Trước đây các lang y thường mang sẵn một miếng sừng để chữa sốt cho trẻ em.
Về tác dụng với sức khỏe sinh lý nam giới chưa có kết luận khoa học nào chứng minh sừng tê giác giúp cường dương. Theo quan niệm của đông y, người ta lấy hàn để chữa nhiệt. Như vậy tác dụng giảm sốt của sừng tê giác là rõ ràng, còn tác dụng cường dương thì chưa thuyết phục. Tất nhiên cũng phải lưu ý một số trường hợp ăn các thức ăn, các chất nóng có tác dụng làm giãn mạch và giúp nam giới viên mãn hơn, nhưng do trước đó họ đã uống rượu có sừng tê giác nên nhầm tưởng. Một lưu ý nữa là, hoạt động tình dục một phần là do nội tiết tố nam giới progesteron quyết định. Nên ăn các thực phẩm có chất này thì mới có tác dụng, còn trong sừng tê giác thì không có.