cái này có nhiều lắm mà. mình sưu tầm đc cái này bạn tham khảo nhé
<!--[if gte mso 9]><xml> <w:WordDocument> <w:View>Normal</w:View> <w:Zoom>0</w:Zoom> <w
unctuationKerning/> <w:ValidateAgainstSchemas/> <w:SaveIfXMLInvalid>false</w:SaveIfXMLInvalid> <w:IgnoreMixedContent>false</w:IgnoreMixedContent> <w:AlwaysShowPlaceholderText>false</w:AlwaysShowPlaceholderText> <w:Compatibility> <w:BreakWrappedTables/> <w:SnapToGridInCell/> <w:WrapTextWithPunct/> <w:UseAsianBreakRules/> <w
ontGrowAutofit/> </w:Compatibility> <w:BrowserLevel>MicrosoftInternetExplorer4</w:BrowserLevel> </w:WordDocument> </xml><![endif][if gte mso 9]><xml> <w:LatentStyles DefLockedState="false" LatentStyleCount="156"> </w:LatentStyles> </xml><![endif][if gte mso 10]> <style> /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} </style> <![endif]-->
GIỚI THIỆU MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP CHẾ BIẾN
PHỤ PHẨM NÔNG NGHIỆP
1. Chế biến bảo quản thức ăn thô xanh bằng phương pháp làm khô
Phương pháp làm khô thức ăn là phương pháp cổ truyền để chế biến dự trữ thức ăn. Phương pháp này sử dụng nhiệt năng để làm thoát hơi nước, giảm độ ẩm của thức ăn đến mức thấp (10-13% ẩm độ) đủ kìm hãm sự hoạt động của các enzym trong tế bào thực vật, cũng như kìm hãm sự hoạt động phân huỷ của vi sinh vật.
- Ưu điểm của phương pháp làm khô:
+ Khi thức ăn gia súc ở trạng thái khô (10-13% độ ẩm) thì các chất dinh dưỡng trong thức ăn được bảo quản có thể dự trữ đáp ứng việc cung cấp thức ăn quanh năm cho gia súc.
+ ở trạng thái khô, thuận lợi cho việc vận chuyển cũng như nghiền nhỏ và dễ dàng trong việc phối chế.
+ Phương pháp làm khô có thể làm giảm được một vài loại độc tố gây hại cho gia súc, ví dụ: làm giảm độc tố HCN trong lá sắn, củ sắn bằng phương pháp phơi, sấy.
- Nhược điểm của phương pháp làm khô:
+ Làm khô bằng cách lợi dụng năng lượng mặt trời thì rẻ tiền, nhưng phụ thuộc vào thời tiết, không phải lúc nào cũng tiến hành được một cách dễ dàng. Mặt khác, dưới ánh nắng mặt trời các chất dinh dưỡng bị tổn thất lớn, đặc biệt là Caroten trong quá trình phơi đã mất đi 80-90% bởi tia cực tím (Gohl-1993).
+ Nếu chế độ phơi sấy không tốt, các chất dinh dưỡng bị tổn thất cao, do quá trình hô hấp nội bào.
+ Quá trình làm khô và quá trình bảo quản tiếp theo, nếu không hợp lý thì sự mất mát dinh dưỡng do sự phá hủy của vi sinh vật (vi khuẩn, nấm mốc...) khá cao, đôi khi tổn thất đó lên tới 15-20% (Dương Hữu Thời, Dương Thanh Liêm và cộng sự, 1982).
+ Quá trình phơi sấy thường làm giảm đáng kể tỷ lệ tiêu hoá các chất hữu cơ đồng thời tăng chi phí nhiệt lượng trong quá trình tiêu hoá đối với gia súc.
+ Làm khô bằng phương pháp sấy chi phí giá thành cao, khó thực hiện ở quy mô sản xuất lớn, đặc biệt ở các nước đang phát triển.
2. Chế biến bảo quản thức ăn thô xanh bằng phương pháp ủ chua
ủ chua (silo) đã xuất hiện khá sớm. Dựa vào những bức tranh cổ trong kim tự tháp, mô tả sinh hoạt của người nông dân cổ đại mà các nhà sử học đoán rằng, người Ai Cập đã biết ủ chua dự trữ thực phẩm cho con người (Woolford,1984). Các nhà sử học còn cho rằng danh từ silo được xuất hiện ở Trung cận Đông vào trước công nguyên. Tại Roma (thủ đô nước ý) người ta cũng đã tìm thấy trong kinh thánh (viết vào khoảng năm 100, sau công nguyên) đã có đoạn nói về ủ cỏ xanh ở dưới đất phía trên trát kín bằng một lớp phân trâu, bò.
Theo tài liệu của Woolford,1984, Schmidt và Wettrau, 1974 thì ở Đức người ta mô tả ủ chua ngọn lá củ cải bắt đầu vào thế kỷ 19. Năm 1862 Reiheu người Đức đã viết một bài báo đầu tiên về ủ chua và được xuất bản ở Đức. ít năm sau, bài báo đó được dịch ra tiếng Pháp và công bố trong tạp chí nông nghiệp thực hành vào năm 1870.
Năm 1877, tác giả Gofart người Pháp đã xuất bản cuốn sách đầu tiên về ủ chua. Cuốn sách đó viết trên cơ sở kinh nghiệm của ông ta trong việc ủ xanh cây ngô. Một năm sau cuốn sách này được dịch ra tiếng Anh, xuất bản ở Anh và ở Mỹ. Kỹ thuật mới này nhanh chóng được áp dụng ở các trang trại tại Mỹ. Vào tháng 1/1886 hội nghị quốc tế thế giới lần thứ 5 về ủ chua thức ăn được tổ chức ở Mỹ. Kỹ thuật ủ chua được áp dụng khá sớm ở Pháp và Mỹ nhưng một hố ủ chua lớn nhất thế giới lúc đó lại được tiến hành tại Anh với khối lượng 1.000 tấn. Thực ra, kỹ thuật này chỉ thực sự phổ biến rộng rãi trên thế giới vào những năm sau chiến tranh thế giới thứ 2, lúc này kỹ thuật ủ chua cũng như kỹ thuật cơ giới hoá ủ chua mới khá hoàn thiện (Mc Donald, 1981; Woolford, 1984; Moran, Kaiser và Stokdale, 1989).
· ý nghĩa của phương pháp ủ chua
Ngày nay người ta thừa nhận rằng ngay cả ở các nước nhiệt đới, 4 mùa tràn đầy ánh nắng mặt trời cũng cần ủ dự trữ thức ăn cho gia súc trong mùa khô. Thức ăn ủ chua ngoài cung cấp năng lượng còn cung cấp cho gia súc vitamin và khoáng chất. Vấn đề ủ chua rất cần thiết, không chỉ dự trữ thức ăn xanh thô để điều hoà lượng thức ăn trong các mùa vụ, thời tiết bất lợi cho trồng trọt mà còn để chế biến, dự trữ thức ăn có nguồn gốc động vật, như các phụ phẩm của hải sản, hay của các lò mổ gia súc.
· Ưu điểm của phương pháp ủ chua
+ Giá thành rẻ hơn phương pháp phơi sấy, ít hao hụt các chất dinh dưỡng, thích hợp với nhiều nước đang phát triển ở nhiệt đới vì không phụ thuộc vào điều kiện thời tiết (Gohl, 1993). Các phụ phẩm nhiều nước, giàu protein, thu hoạch vào mùa mưa vẫn có thể chế biến dữ trữ được bằng phương pháp ủ chua.
+ Thức ăn ủ chua tổn thất dinh dưỡng tương đối ít, lại giữ được hoạt tính sinh tố A, thường đạt được 1/3 so với dạng tươi (Gohl, 1993).
+ ủ chua thức ăn không đòi hỏi thiết bị tốn kém nên giá thành sản phẩm hạ, dễ áp dụng trong điều kiện chăn nuôi nông hộ và trang trại nhỏ.
+ ủ chua thức ăn thường nâng cao được tỷ lệ tiêu hoá thức ăn.
· Nhược điểm của phương pháp ủ chua
+ Giai đoạn đầu của quá trình ủ chua, chất bột đường bị tổn thất một phần, do hô hấp tế bào thực vật tạo thành nhiệt năng, nước và CO[SUB]2[/SUB]. Đối với protein thì ít bị tổn thất, nhưng dễ bị biến dạng làm giảm giá trị sinh học của protein trong thức ăn đối với gia súc dạ dày đơn và gia cầm (Schmidt, Wetterau, 1974).
+ Hàm lượng sinh tố D trong thức ăn ủ chua của cùng một loại cỏ, sau khi ủ chua thường thấp hơn so với làm khô (Dương Hữu Thời, Dương Thanh Liêm và cộng sự, 1982).
+ Nếu ủ chua không đúng quy cách dễ dẫn đến thức ăn bị hư hỏng, không thể sử dụng làm thức ăn cho gia súc.
· Kỹ thuật ủ chua thức ăn cho gia súc
Phương pháp ủ chua thức ăn gia súc không chỉ được sử dụng để dự trữ thức ăn xanh mà còn để chế biến, dự trữ thức ăn có nguồn gốc động vật như: sản phảm phụ của công nghiệp chế biến thuỷ hải sản hay của các lò mổ gia súc. ủ chua là kỹ thuật ủ yếm khí thức ăn xanh thô có hàm lượng nước cao (75-80%), nhờ hệ vi sinh vật lên men tạo ra axit lactic và một lượng nhất định các axit hữu cơ khác. Do đó nhanh chóng đưa độ pH của thức ăn ủ hạ xuống 4-4,5; ở độ pH này hầu hết các loại vi sinh vật và các men (enzim) chứa trong thực vật đều bị ức chế. Nhờ vậy thức ăn ủ chua có thể bảo quản được hàng năm. Quá trình lên men thức ăn xanh xảy ra nhờ chính nhóm vi khuẩn lactic và nhóm vi khuẩn khác vốn có sẵn trên bề mặt cây cỏ. Hầu hết các cây cỏ làm thức ăn gia súc đều có thể ủ xanh được; nhưng thường sử dụng là cỏ hoà thảo, một số cây họ đậu, các cây ngũ cốc (chủ yếu là cây ngô ở thời kỳ ngậm sữa). Tuy nhiên cũng cần chú ý rằng những loại thức ăn xanh có hàm lượng nước quá cao (trên 85%) như rau muống, dây lang, rong, rau, bèo... rất khó ủ chua.
Các nhóm vi sinh vật quan trọng lên men thức ăn xanh bao gồm vi khuẩn lactic, nhóm vi khuẩn Clostridia, nhóm vi khuẩn dạng Coli... Vi khuẩn lactic là nhóm vi sinh vật có lợi, chúng lên men hydratcacbon dễ hoà tan và tạo ra axit lactic và một phần nhỏ axit hữu cơ khác, do đó chúng nhanh chóng làm hạ thấp pH xuống 4-4,5. Ngược lại nhóm vi khuẩn Clostridia lại phát triển mạnh trong môi trường có tỷ lệ nước cao (cao hơn 85%), đồng thời chúng phân huỷ mạnh mẽ protein tạo ra amoniac, axit axetic, axit butyric... làm hao hụt protein của thức ăn ủ chua. Do đó nhóm vi khuẩn này là không có lợi cho quá trình dự trữ thức ăn.
Hàm lượng hydratcacbon hoà tan dễ được lên men của cây cỏ có vai trò rất quan trọng. Nếu hàm lượng này quá thấp thì quá trình lên men kém, thức ăn sẽ khó ủ chua. Nhưng hầu hếu các cây thức ăn hòa thảo có hàm lượng hydratcacbon dễ tan khá cao, chúng biến động từ 40-300 g/1kg chất khô của cây thức ăn. ở cây họ đậu chỉ tiêu này thường thấp hơn ở cây hòa thảo; do đó ủ chua cây họ đậu thường khó khăn hơn; mặt khác cây họ đậu lại giàu protein dễ bị phân huỷ thành amoniac tạo ra môi trường kiềm, do đó khi ủ chua cây họ đậu cần phải chú ý đặc điểm này.
+ Các chế phẩm vi sinh vật sử dụng để bổ sung vào những thức ăn khó ủ chua:
Cây họ đậu và một số cây hòa thảo có hàm lượng hydratcacbon hoà tan thấp, thường khó dự trữ bằng phương pháp ủ chua, do đó người ta đã nghiên cứu bổ sung một số chế phẩm "kích thích" hoặc "ức chế" vào nguyên liệu ủ chua và đã thu được kết quả tốt.
Người ta thường sử dụng các sản phẩm đông khô của các chủng vi khuẩn lactic sau: lactobacillus plantarum hay Pediococcus acidilactic... Các chế phẩm này phải được bổ sung một lượng nhất định, sao cho 1 g cỏ xanh phải được bổ sung ít nhất 100.000 tế bào vi khuẩn này (10[SUP]5[/SUP]). Chế phẩm này thường đắt và chỉ được dùng bổ sung để ủ chua cây họ đậu giàu protein.
+ Bổ sung rỉ mật vào nguyên liệu ủ chua:
Người ta thường bổ sung rỉ mật để ủ chua cây họ đậu, cây hòa thảo quá già (hàm lượng hydratcacbon hoà tan thấp) hay các sản phẩm phụ của công nghiệp chế biến thuỷ hải sản và của các lò mổ gia súc. Tuỳ theo nguyên liệu dùng ủ chua mà ta bổ sung tỷ lệ rỉ mật khác nhau. Đối với cây họ đậu người ta có thể bổ sung 2-5% rỉ mật, còn với cây hoà thảo chỉ cần bổ sung 1-3%; nhưng đối với phụ phẩm thuỷ hải sản (đầu tôm, cá con...) cũng như sản phẩm phụ của lò mổ (lòng ruột, tiết...) tỷ lệ rỉ mật bổ sung cần đạt tới 30-50%. Tuy nhiên thời gian dự trữ chỉ trong 3-4 tháng.
Các chất "ức chế" bổ sung vào nguyên liệu lên men: Rất nhiều loại chất ức chế là các chất hóa học đã được nghiên cứu nhưng chỉ một số ít loại chế phẩm này được áp dụng vào sản xuất. Các chất ức chế là các axit vô cơ như axit clohydric (HCl), axit sunfuric (H[SUB]2[/SUB]SO[SUB]4[/SUB]), axit photphoric (H[SUB]3[/SUB]PO[SUB]4[/SUB])... Chúng nhanh chóng làm giảm pH của thức ăn ủ xưống dưới 4, nhờ đó ức chế được các nhóm vi sinh vật có hại. Liều lượng bổ sung cũng tuỳ thuộc vào nồng độ của các axit này. Các chất ức chế là axit hữu cơ như axit foocmic hoặc hỗn hợp axit foocmic với focmalin. Các hóa chất này liên kết với protein và chống lại sự phân huỷ protein của vi sinh vật trong hố ủ chua. Những thức ăn này khi gặp điều kiện axit mạnh ở dạ dày hay dạ múi khế protein sẽ được giải phóng và tiêu hóa bình thường ở dạ dày và ruột non.
Kỹ thuật ủ chua thức ăn thô xanh làm thức ăn cho gia súc:
Về nguyên lý quá trình ủ chua thức ăn thô xanh là quá trình lên men trong điều kiện yếm khí để chuyển các đường dễ tan chứa trong nguyên liệu đem ủ thành các axit béo dễ bay hơi. Khi lượng axit này được tích luỹ đến khối lượng nhất định thì pH môi trường có tác dụng ức chế hầu hết các hoạt động của vi khuẩn, nhờ đó thức ăn được bảo quản không hư hỏng.
Để đáp ứng nguyên lý ủ chua, nguyên liệu ủ phải được thái nhỏ (3-4cm), sau đó lần lượt cho vào hố ủ theo từng lớp dày khoảng 15-20cm, rồi nén chặt (nhằm nhanh chóng đạt điều kiện yếm khí). Có thể dùng máy kéo, công nông để đầm nén đối với các hố ủ lớn, còn đối với các hố ủ nhỏ có dung tích từ 1-2 m[SUP]3[/SUP] ta có thể nén bằng chân, nhưng rất cần được nén chặt, đó là một trong những yếu tố quyết định đến chất lượng thức ăn ủ. Khi hố ủ đã đầy cần phải che kín bằng lá chuối tươi, lá cọ, bao tải dứa, tốt nhất là nilon. Sau đó phủ một lớp đất dày chừng 30-40 cm và nén chặt. Chú ý chống nước ngầm và nước mưa thấm vào hố ủ. Sau khi ủ 2 tháng có thể sử dụng thức ăn ủ chua cho gia súc; nhưng cần lưu ý sau khi lấy thức ăn ủ ta phải che đậy kín để chống nước mưa thấm vào hố ủ.
Đánh giá chất lượng thức ăn ủ chua
Người ta dựa vào độ pH, hàm lượng các axit hữu cơ, hàm lượng amoniac, hàm lượng nước để đánh giá chất lượng ủ chua. Thức ăn ủ chua có độ pH trong khoảng 4-4,5 được coi là chất lượng tốt. Nhưng nếu pH cao hơn 4,5 thì chất lượng ủ chua giảm đi. Hàm lượng axit lactic càng cao chất lượng ủ chua càng tốt. Tỷ lệ tiêu hóa thức ăn ủ chua tương tự như cỏ xanh cùng loại, nhưng khả năng ăn được của gia súc thường thấp hơn. Thức ăn ủ chua có chất lượng tốt thường có màu vàng nâu, không bị thối nhũn, đồng thời có mùi đặc trưng của axit lactic. Ngược lại nếu thức ăn ủ chua có màu sẫm đen, thức ăn nhũn nát, mùi khó chịu của axit butyric... tức là chất lượng thức ăn ủ chua kém.
Thức ăn ủ chua có thể sử dụng như nguồn thức ăn xanh cho gia súc. Do đó người ta có thể cho gia súc ăn tự do cùng phối hợp với một số loại thức ăn khác (rơm chế biến urê, cỏ khô, thức ăn tinh...).
3. Chế biến bảo quản thức ăn nhiều xơ bằng phương pháp kiềm hóa làm thức ăn cho gia súc nhai lại
Lúa nước được trồng phổ biến ở châu á và rơm lúa cũng được sử dụng rộng rãi ở các nước này làm thức ăn cho gia súc nhai lại. Tuy rơm lúa chứa một nguồn năng lượng tiềm tàng cho gia súc nhai lại, nhưng hàm lượng xơ rất cao (32-40% tính trong chất khô). Rơm lúa lại nghèo protein và chất khoáng, mặt khác chúng lại khó tiêu nên gia súc chỉ ăn được một lượng hạn chế. Kết quả nhiều thí nghiệm đã xác định rằng khi cho bò trưởng thành (có khối lượng cơ thể 300 kg) ăn cỏ khô tự do trong thời gian dài thì bò có thể ăn được trung bình 10 kg cỏ khô hàng ngày, nhưng nếu sử dụng rơm chưa chế biến làm thí nghiệm thì chúng chỉ ăn được 5 kg /con/ngày.
Hàm lượng lignin trong rơm lúa khá cao (6-7%) nên làm cho hệ số tiêu hóa của rơm rất thấp (35-40%). Người ta đã tiến hành nhiều thí nghiệm chế biến rơm bằng phương pháp kiềm hóa để làm tăng tiêu hóa rơm của gia súc. Các hóa chất mang tính kiềm đã làm lung lay mối liên kết giữa lignin và celullose và hemicelullose trong thành tế bào; do đó làm cho rơm trở nên dễ được tiêu hóa ở dạ cỏ. Có thể coi Beckman là người đầu tiên dùng xút (NaOH) chế biến rơm ở điều kiện áp suất cao, nhiệt độ cao, để làm thức ăn cho gia súc nhai lại và đã thu được kết quả tốt, nhưng phương pháp này tốn năng lượng nên không được áp dụng trong sản xuất. Sau chiến tranh thế giới thứ nhất người ta cải tiến phương pháp này, không dùng nhiệt độ cao, áp suất cao mà chỉ ngâm rơm trong dung dịch xút (20-40%) trong thời gian 1-2 ngày, sau đó rửa phần xút dư và cho gia súc ăn. Phương pháp này làm mất mát nhiều chất dinh dưỡng dễ hoà tan, nên hiệu quả thấp và cũng không được áp dụng sản xuất rộng rãi.
Ngày nay người ta tập trung nghiên cứu "chế biến khô", băm nhỏ hoặc nghiền nhỏ rơm rồi chế biến rơm với dung dịch hydroxit amôn (NH[SUB]4[/SUB]OH) hoặc khí amoniac cũng nhận thấy làm tăng tỷ lệ tiêu hóa gần giống như dùng xút; đồng thời làm tăng đáng kể hàm lượng protein thô của rơm. Tuy nhiên phương pháp chế biến này đòi hỏi phải có thiết bị và rơm chế biến cần phải được che phủ kín, đồng thời khí amoniac dễ gây độc hại cho người chế biến thức ăn. Do đó ở các nước đang phát triển cũng khó áp dụng kỹ thuật này. Nhưng người ta cũng không nhận thấy phương pháp băm nhỏ nghiền nhỏ rồi chế biến bằng hóa chất có hiệu quả cao hơn so với rơm để nguyên chế biến.
Gần đây ở nhiều nước đã nghiên cứu, ứng dụng phương pháp sử dụng urê để chế biến rơm. Phương pháp này rẻ tiền hơn và dễ áp dụng. ở Bangladesh, ấn Độ, Thái Lan, Srylandca... Người ta thường sử dụng 4-5 kg urê để chế biến 100 kg rơm khô; nhưng ở nước ta các kết quả nghiên cứu của Viện Chăn nuôi cho thấy khi sử dụng 2,5% urê và 0,5% vôi tôi để chế biến 100 kg rơm đã làm tăng tỷ lệ tiêu hóa rơm, tương tự như phương pháp sử dụng 4 kg urê để chế biến 100 kg rơm. Kỹ thuật này đã được áp dụng ở nhiều hộ nông dân.
¶