Nông nghiệp Việt Nam qua bao thế hệ vẫn giữ được nét riêng, nét đặc trưng truyền thống của một quốc gia thuần nông. Điển tích lịch sử hiện hữu rõ giá trị cốt lõi làm nên một phong cách mà khi nhắc tới khiến người ta chỉ có thể nghĩ ngay tới Việt Nam. Thật sự như vậy, có ai bảo rằng không biết bánh chưng, bánh dày, bánh tét, dưa hấu, cau, trầu… ? Ai từng là trẻ thơ sẽhình dung ra điều đó và hiển nhiên người Việt Nam đều hiểu rõ bản thân đã và đang thừa hưởng những gì từ chiếc nôi “Nông nghiệp lúa nước”. Để làm nông, cư dân vùng đất phương Nam đã biết tới việc be bờ tích trữ nước cho mùa khô, chống nước dâng khi lũ về, một lần nữa quá khứ lại nhắc chúng ta về ý nghĩa đó; “Sơn tinh Thủy tinh” không đơn thuần là chuyện cổ để kể, để hóa phép màu ru con trẻ ngủ, ẩn trong nó là giá trị bảo vệ mùa màng, bảo vệ thành quả lao động trước thiên tai, bên cạnh đó, người dân Việt Nam còn có biết bao trận chiến đối đầu với giặc ngoại xâm; không gì to lớn hơn việc Chiến đấu để “giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ cánh đồng lúa chín”. Thuở ban sơ, truyện “Thánh gióng” đã ấp ủ cho ước mong bình dị đó, Gióng lớn nhờ làng, nhờ gạo tẻ, gạo nếp, ngô khoai của dân làng… Và trong mỗi chúng ta khi đi đâu, về đâu ắt hẳn sẽ nhớ mãi lời ru của mẹ bên cánh đồng mùa gặt, bên luống rau, vườn cây trĩu quả…
Chắc mọi người ngạc nhiên là vì sao tôi lại bắt đầu bài viết kỳ thứ hai như thế? Tôi tin rằng bất cứ ai đọc qua những dòng đầu tiên sẽ lắng đọng ít nhiều dư âm của tuổi thơ, của cuộc sống dân dã nhất, bình dị nhất. Nhắc lại để nhớ, nhớ là Việt Nam có nền kinh tế nông nghiệp lâu đời, chúng ta cũng có cái mạnh riêng của ta, nhiều người cứ dè bỉu làm nông nghiệp thì bao lâu mới giàu, bao lâu mới theo kịp thế giới khi guồng quay kinh tế thị trường đang tăng tốc với nhịp điệu càng lúc càng nhanh? Xin được đáp rằng; Làm nông nghiệp không thể nghèo được, thậm chí là rất giàu. Ai dám bảo nước Mỹ, Hà Lan, Thụy Sỹ, Thụy Điển hay Israel có nền nông nghiệp nghèo? Tất nhiên phải thừa nhận bên cạnh công nghiệp thì nông nghiệp chắc chắn là tuyệt đỉnh của công nghệ làm nông. Trở về với nông nghiệp Việt Nam, thay vì thở than nông nghiệp ta khó khăn thì hãy nghĩ xem, hành động xem chúng ta phải làm gì để nông nghiệp là một thế mạnh, nông nghiệp bền vững thì đó là một việc đáng khuyến khích.
Nông nghiệp Việt Nam trải qua thời phong kiến có lúc thịnh vượng, có lúc suy tàn theo triều đại cầm quyền, thời Pháp thuộc và thời Mỹ xâm lược nông nghiệp chỉ là một sự tương tác giữa chính quốc và thuộc địa, nông dân không thể có cuộc sống tốt dưới thời kì đô hộ, nhưng đó cũng là thời kì mà Việt Nam bắt đầu được tiếp xúc với công nghệ, với quy trình sản xuất nông nghiệp quy mô lớn. Nông nghiệp có bước tiến dần dần, sau khi đất nước thống nhất, Đảng, Nhà nước chủ trương công nghiệp hóa ồ ạt dẫn tới hệ lụy là nông nghiệp bị quên lãng, công nghiệp hóa phải tiến hành cả trong nông nghiệp; đó là kết luận mà Đại hội VI(1986) Đại hội của đổi mới. Cho nên chúng ta mới có hợp tác xã, rồi cánh đồng mẫu lớn, khoán 10, khoán 100 rồi xé rào trước đổi mới. Hậu đổi mới vẫn còn tồn tại bất cặp khi nền kinh tế mất cân đối giữa nông nghiệp và công nghiệp. Một thời gian khoảng 10 năm sau đổi mới thì hiệu ứng của các chính sách khuyến nông mới thật sự đập đúng nhịp đập của nó. Đó là bước tiến rất lớn với nền nông nghiệp Việt Nam; cơ giới hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, và nông nghiệp nước nhà bắt đầu hòa mình và dòng chảy kinh tế thị trường.
Qua từng giai đoạn, từng nhiệm kì, Quốc hội luôn có kết luận thành tựu và hạn chế của nông nghiệp nước ta. Đặc biệt vài năm trở lại đây, nông nghiệp trở thành chủ điểm tranh luận sôi nổi trong các cuộc họp từ trung ương tới địa phương; nào là trồng cây gì, nuôi còn gì, xuất khẩu cái gì, nhập cái gì và hướng tới cân bằng cung và cầu khi nó đang mất tương xứng, rồi quy trình sản xuất, chế biến, bảo quản nông sản, thủy sản…. Tất cả thể hiện sinh động thực trạng nông nghiệp Việt Nam hiện nay.
Trong năm 2013, 2014 Việt Nam ta thu về cho ngân sách bình quân khoảng 2,8 tỷ USD từ nông nghiệp. Tuy nhiên, nông nghiệp vẫn còn nhiều bất cập, không hài hòa giữa các nhóm; lương thực thực phẩm, chăn nuôi, rau màu, cây ăn trái, cây công nghiệp, nuôi trồng thủy hải sản. Chúng ta chỉ phát huy được đôi chút từ xuất khẩu lúa, cà phê, chè, cao su, thủy hải sản và một ít trái cây. Nhưng băn khoăn nhất hiện nay là quy trình sơ chế, chăm sóc, dây chuyền công nghệ chưa đáp ứng tốt hầu hết các thị trường khó tính như Mỹ, Nhật, Tây Âu, chỉ một lượng hàng thế mạnh được xuất sang các nước đó, mà rất hay vỡ lẽ khi các nước này kiểm tra tiêu chuẩn an toàn chất lượng rồi mất ngay nguồn xuất khẩu. Có nghĩa là nông dân vẫn chưa thật sự ý thức tốt việc phải đảm bảo các yếu tố tiêu chuẩn quốc tế, như vậy nông nghiệp mới bền vững được.
Mặt khác, cung vượt quá cầu cũng gây ra hệ lụy; chúng ta chắc còn nhớ như in ba năm trở lại đây xuất khẩu lúa cứ ì ạch, nông dân được mùa rớt giá, cà phê, hồ tiêu khó xuất đi bới sơ chế chưa đạt yêu cầu, thanh long Bình Thuận, dưa hấu Tiền Giang, Long An ồn ứ phải đổ cho bò ăn, rồi tới chuối xếp hàng dài ở cửa khẩu Việt Nam - Trung Quốc, cà chua, hồng Đà Lạt 3kg 10000 đồng, hành tây thu hoạch không ai mua, hành tím Sóc Trăng tồn đọng, dừa Bến tre chỉ tiêu thụ quanh mức giá dưới 6000 đồng/ trái… Dẫn tới người nông dân phá bỏ, trồng lại loại cây khác gây lãng phí thời gian, tiền bạc.
Vậy, đâu là nguyên nhân cho những điều nêu trên. Có khá nhiều nguyên do làm cho nền nông nghiệp Việt rơi vào thế bí khi mà cánh cửa hội nhập đang dần hé mở, khi TPP bắt buộc nông nghiệp Việt Nam phải tham gia vào sân chơi chung. Dưới góc độ tổng quan tôi xin đưa ra 6 nguyên nhân cơ bản cũng chính là thực trạng nền nông nghiệp Việt Nam đang đối mặt.
Thứ nhất, cơ chế, quản lý thiếu chặt chẽ, quy hoạch tổng thể không rõ ràng khiến người nông dân lơ mơ trong việc xác định lựa chọn mô hình nông nghiệp. Macca gần đây nổi cộm lên trên các trang báo, nói nhiều từ lợi ích trồng Macca, nhưng làm sao để có nguồn thu mua ổn định cho nông dân thì các cấp quản lý chưa chỉ ra được, đó là một trong số nhiều ví dụ. Chính sách nói một đằng nhưng hướng dẫn thực hiện làm một nẻo, cán bộ kiêm nhiệm đủ thứ không rõ chuyên môn là gì, chỉ dẫn người dân mập mờ khiến cho các quy trình chưa đảm bảo một quy chuẩn chung.
Thứ hai, còn thiếu một lực lượng giáo sư, tiến sỹ, kĩ sư chuyên trách nông nghiệp, dù có cũng chỉ tập trung rải rác ở các khu đồng bằng trung tâm, chỉ dẫn qua lý thuyết mà chưa tận tay, tận mắt nghiên cứu thức tế, chưa cùng làm cùng rút kinh nghiệm với nông dân. Rất nhiều hội thảo, chuyên đồ nông nghiệp được đưa ra thảo luận, nhiều hứa hẹn nêu ra, nhưng khi hội thảo, chuyên đề khép lại thì đâu lại vào đấy và nông dân vẫn lầm lũi, mò mẫm tự thân vận động.
Thứ ba, hiệu ứng “bắt chước” của nông dân Việt khiến cho tình trạng nguồn cung dồi dào mà thị trường thì không cần quá nhiều. Cứ thấy một nhà làm được thì lập tức không lâu sau đó sẽ có 10 nhà, 50 nhà rồi cả làng, hệ quả là ế thừa. Hiệu ứng “bắt chước” đó một phần tạo nên sức ép trong quy hoạch, một phần tạo tính thụt lùi trong phát triển nông nghiệp, vì cái gì sản xuất nhiều, hàng loại thì dễ lơ là trong khâu chất lượng. Cho nên hàng dù có nhiều nhưng khó có thể chinh phục được thị trường quốc tế.
Thứ tư, khâu quản lý của Nhà nước còn lỏng lẻo vô tình tạo lỗ hỏng để các “con buôn” tha hồ tung hoành hàng kém chất lượng, hóa chất, phụ gia nông nghiệp không đảm bảo nguồn gốc. Quá trình giám sát, kiểm tra đánh giá chất lượng còn mang tính phong trào. Cứ tới ngày vệ sinh an toàn thực phẩm thì hô hào, băng ron, biểu ngữ, kiểm tra chồm đốm kiểu cóc nhảy khiến cho các cơ sở chế biến sản phẩm nông nghiệp tìm cách đối phố nhiều hơn là hoàn thiện khâu giám sát tiêu chuẩn.
Thứ năm, thị trường xuất khẩu nói chung quanh quẩn Việt Nam – Trung Quốc, còn hướng ra Tây thì nhỏ giọt. Trong khi hợp tác với Trung Quốc không thông qua hình thức “Chợ - Chợ”, tức là hàng hóa nông sản của ta chỉ tập trung ở cửa khẩu chờ tới khi Trung Quốc mở phiên chợ thì cho hàng sang với hình thức thương lái – chợ Trung Quốc, mà lẽ ra phải là Chợ Việt – Chợ Trung giao dịch với nhau, do đó Trung Quốc dễ dàng ép giá, nên nhiều lúc nông sản đổ bỏ khi chưa đến được cửa khẩu.
Thứ sáu, Tinh thần trách nhiệm của nông dân còn hướng nhiều vào kinh nghiệm, chưa chịu mở lòng ra với khoa học kĩ thuật, nông dân Việt còn chưa tính xa tới giải pháp hợp tác với hệ thống các siêu thị, trung tâm thương mại nội địa. Để được như vậy, cần thiết phải có một nền nông nghiệp tiêu chuẩn Vietgap. Từ đó tạo ra thương hiệu mang tính pháp lý để hợp tác với thị trường trong và nước.
Như vậy, nông nghiệp Việt Nam có nhiều thế mạnh đã có từ trước, nhưng để phát huy đòi hỏi phải có sự đầu tư cao độ. Cần chỉ ra điểm yếu nhằm khắc phục hơn là lôi ra để chán nản, nông nghiệp bền vững phải là một nền nông nghiệp hiện đại, có đầy đủ đội ngũ cán bộ phụ trách, nông dân có trình độ được tiếp cận công nghệ hiện đại. Phải hiểu chủ lực kinh tế không phải chỉ có công nghiệp, nông nghiệp quan trọng không kém, nông nghiệp đã từng nuôi lớn bao thế hệ, sản sinh ra biết bao người con ưu tú. Vậy thì tại sao chúng ta không hành động cho một nền nông nghiệp tiên tiến, gạt bỏ định kiến làm nông sẽ nghèo…và thực trạng nông nghiệp Việt Nam đang là hồi chuông cảnh báo để mọi sự thay đổi tiếp theo phải đạt được hiệu quả nếu không muốn tụt hậu, không muốn thua ngay trên sân nhà khi TPP mở cửa.
Hiếu Nghĩa, Bài số 2, 31/12/15