1.<!--[endif]--> Giới thiệu về con trùn quế. <o>
></o>
>
<!--[if !supportLists]-->1.1<!--[endif]--> Đặc điểm hình thái.<o>
></o>
>
Trùn quế có tên khoa học là Perionyx excavatus, chi Pheretima, họ Megascocidae, nghành ruột khoang. Chúng thuộc nhóm trùn ăn phân, thường sống trong môi trường có nhiều chất hữu cơ đang phân huỷ, trong tự nhiên ít tồn tại với phần thể lớn và không có khả năng cải tạo đất trực tiếp như một số loài trùn địa phương.<o>
></o>
>
Trùn quế trưởng thành có kích thước dài khoảng 10 – 15 cm, thân hơi dẹt, bề ngang của con trưởng: 0,1 – 0,2 cm, có màu đỏ đến màu mận chín, hai đầu hơi nhọn. Cơ thể trùn có hình thon dài nối với nhau bởi nhiều đốt, trên mỗi đốt có một vành tơ. Khi di chuyển, các đốt co duỗi kết hợp các lông tơ phía bên dưới các đốt bám vào cơ chất đẩy cơ thể di chuyển một cách dễ dàng. <o>
></o>
>
Trùn quế là một trong những giống trùn đã được thuần hoá nhập nội và đưa vào nuôi công nghiệp với các quy mô vừa và nhỏ. Đây là loài trùn mắn đẻ, xuất hiện rải rác ở vùng nhiệt đới.<o>
></o>
>
<!--[if !supportLists]-->1.2<!--[endif]-->Đặc điểm sinh học.<o>
></o>
>
Trùn quế sinh sản rất nhanh trong điều kiện khí hậu nhiệt đới tương đối ổn định và độ ẩm cao. <o>
></o>
>
Trùn quế là sinh vật lưỡng tính, chúng có đai và các lỗ sinh dục nằm ở phía đầu của cơ thể, có thể giao phối chéo với nhau để hình thành kén ở mỗi con, kén được hình thành ở đai sinh dục, trong mỗi kén mang từ 1 – 20 trứng, kén trùn di chuyển dần về phía đầu và rơi ra đất. Kén áo hình dạng thon dài, hai đầu túm nhọn lại gần giống như hạt bông cỏ, ban đầu có màu trắng đục, sau chuyển sang xanh nhạt rồi vàng nhạt. Mỗi kén có thể nở từ 2 – 10 con.<o>
></o>
>
Khi mới nở, con nhỏ như đầu kim có màu trắng, dài khoảng 2 – 3 mm, sau 5 – 7 ngày cơ thể chúng sẽ chuyển dần sang màu đỏ và bắt đầu xuất hiện một vằn đỏ thẳm trên lưng. Khoảng 15 – 30 ngày sau, chúng trưởng thành và bắt đầu xuất hiện đai sinh dục, từ lúc này chúng bắt đầu có khả năng bắt cặp và sinh sản. Con trưởng thành khỏe mạnh có màu mận chín và có sắc ánh kim trên cơ thể.<o>
></o>
>
Trùn quế hô hấp qua da, chúng có khả năng hấp thu Oxy và thải CO<sub>2</sub> trong môi trường nước, điều này giúp cho chúng có khả năng sống trong nước nhiều lần, thậm chí trong nhiều tháng.<o>
></o>
>
Hệ thống bài tiết bao gồm một cặp thận ở mỗi đốt. Các cơ quan bảo đảm cho việc bài tiết các chất thải chứa đạm dưới dạng Amoniac và Ure. Trùn quế nuốt thức ăn bằng môi ở lỗ miệng, lượng thức ăn mỗi ngày được nhiều nhà khoa học ghi nhận là vi sinh vật cộng sinh, chúng thải ra phân ra ngoài rất giàu dinh dưỡng (hệ số chuyển hoá ở đây khoảng 0.7), những vi sinh vật cộng sinh có ích trong hệ thống tiêu hoá này theo phân ra khỏi cơ thể trùn. <o>
></o>
>
<!--[if !supportLists]-->1.1<!--[endif]--> Đặc điểm hình thái.<o>
Trùn quế có tên khoa học là Perionyx excavatus, chi Pheretima, họ Megascocidae, nghành ruột khoang. Chúng thuộc nhóm trùn ăn phân, thường sống trong môi trường có nhiều chất hữu cơ đang phân huỷ, trong tự nhiên ít tồn tại với phần thể lớn và không có khả năng cải tạo đất trực tiếp như một số loài trùn địa phương.<o>
Trùn quế trưởng thành có kích thước dài khoảng 10 – 15 cm, thân hơi dẹt, bề ngang của con trưởng: 0,1 – 0,2 cm, có màu đỏ đến màu mận chín, hai đầu hơi nhọn. Cơ thể trùn có hình thon dài nối với nhau bởi nhiều đốt, trên mỗi đốt có một vành tơ. Khi di chuyển, các đốt co duỗi kết hợp các lông tơ phía bên dưới các đốt bám vào cơ chất đẩy cơ thể di chuyển một cách dễ dàng. <o>
Trùn quế là một trong những giống trùn đã được thuần hoá nhập nội và đưa vào nuôi công nghiệp với các quy mô vừa và nhỏ. Đây là loài trùn mắn đẻ, xuất hiện rải rác ở vùng nhiệt đới.<o>
<!--[if !supportLists]-->1.2<!--[endif]-->Đặc điểm sinh học.<o>
Trùn quế sinh sản rất nhanh trong điều kiện khí hậu nhiệt đới tương đối ổn định và độ ẩm cao. <o>
Trùn quế là sinh vật lưỡng tính, chúng có đai và các lỗ sinh dục nằm ở phía đầu của cơ thể, có thể giao phối chéo với nhau để hình thành kén ở mỗi con, kén được hình thành ở đai sinh dục, trong mỗi kén mang từ 1 – 20 trứng, kén trùn di chuyển dần về phía đầu và rơi ra đất. Kén áo hình dạng thon dài, hai đầu túm nhọn lại gần giống như hạt bông cỏ, ban đầu có màu trắng đục, sau chuyển sang xanh nhạt rồi vàng nhạt. Mỗi kén có thể nở từ 2 – 10 con.<o>
Khi mới nở, con nhỏ như đầu kim có màu trắng, dài khoảng 2 – 3 mm, sau 5 – 7 ngày cơ thể chúng sẽ chuyển dần sang màu đỏ và bắt đầu xuất hiện một vằn đỏ thẳm trên lưng. Khoảng 15 – 30 ngày sau, chúng trưởng thành và bắt đầu xuất hiện đai sinh dục, từ lúc này chúng bắt đầu có khả năng bắt cặp và sinh sản. Con trưởng thành khỏe mạnh có màu mận chín và có sắc ánh kim trên cơ thể.<o>
Trùn quế hô hấp qua da, chúng có khả năng hấp thu Oxy và thải CO<sub>2</sub> trong môi trường nước, điều này giúp cho chúng có khả năng sống trong nước nhiều lần, thậm chí trong nhiều tháng.<o>
Hệ thống bài tiết bao gồm một cặp thận ở mỗi đốt. Các cơ quan bảo đảm cho việc bài tiết các chất thải chứa đạm dưới dạng Amoniac và Ure. Trùn quế nuốt thức ăn bằng môi ở lỗ miệng, lượng thức ăn mỗi ngày được nhiều nhà khoa học ghi nhận là vi sinh vật cộng sinh, chúng thải ra phân ra ngoài rất giàu dinh dưỡng (hệ số chuyển hoá ở đây khoảng 0.7), những vi sinh vật cộng sinh có ích trong hệ thống tiêu hoá này theo phân ra khỏi cơ thể trùn. <o>