đợi Chờ

Hì hì, bạn thiết thanglong
Xin cho bày tỏ đôi dòng bâng-khuâng

Ngày nào mà tâm không bận
Không còn nghĩ tới người gần người xa
Ngày ấy thế-giới ta-bà
Giang tay mở cỗng thoát ra khỏi đời
Hồn lìa khỏi xác chơi vơi...

Tui, hạt cát ngút ngàn sa-mạc
Giọt nước hèn bát-ngát trùng-khơi
Bông tuyết nhỏ giữa đồng băng giá
Hạt nước sa giữa trận mưa đời

Đời cho tui nhu-cầu cuộc sống
Đời cho tui giấc mộng tương-lai
Nợ đời không nợ riêng ai
Nợ đời nợ cả người đời trước, nay

Nhưng tay ngắn không ôm hết nợ
Nhưng lòng nầy quyết chí không quên
Không quên món nợ không tên
Nợ không tên ấy biết đền cho ai

Đền cho ai, biết ai, ai biết
Biết bao người ban biết bao ơn
Ơn cha ơn mẹ nào hơn
Ơn thầy ơn bạn, ơn luôn người tình

Tình xin kể người làm cơm áo
Xin kể người nhu-yếu làm ra
Ơn người săn-sóc cho ta
Mọì thứ ta hưởng, đều là bận-tâm...
 


Hì hì, bạn thiết thanglong

Xin cho bày tỏ đôi dòng bâng-khuâng

Ngày nào mà tâm không bận

Không còn nghĩ tới người gần người xa

Ngày ấy thế-giới ta-bà

Giang tay mở cỗng thoát ra khỏi đời

Hồn lìa khỏi xác chơi vơi...

Mai này ... mây gió tang bồng
Chẳng hề vướng bận ... cõi hồng phù du

Tui, hạt cát ngút ngàn sa-mạc

Giọt nước hèn bát-ngát trùng-khơi

Bông tuyết nhỏ giữa đồng băng giá

Hạt nước sa giữa trận mưa đời

Đời cho tui nhu-cầu cuộc sống

Đời cho tui giấc mộng tương-lai

Nợ đời không nợ riêng ai

Nợ đời nợ cả người đời trước, nay

Nhưng tay ngắn không ôm hết nợ

Nhưng lòng nầy quyết chí không quên

Không quên món nợ không tên

Nợ không tên ấy biết đền cho ai

Đền cho ai, biết ai, ai biết

Biết bao người ban biết bao ơn

Ơn cha ơn mẹ nào hơn

Ơn thầy ơn bạn, ơn luôn người tình

Tình xin kể người làm cơm áo

Xin kể người nhu-yếu làm ra

Ơn người săn-sóc cho ta

Mọì thứ ta hưởng, đều là bận-tâm...

Biết trả lời Lão sao cho thỏa đáng bây giờ ? Bởi vì lại sa vào Tiểu Thừa . Vài lời khó mà nói hết . Người không hiểu ... lại bảo mình nói bậy

Mua chẳng trả mới xem là nợ
Tình phụ người mới gọi phụ tình
Vay chẳng trả mới xem là nợ
Ơn đáp đền chẳng gọi phụ ơn

Ơn cha mẹ bao la trời bể
Phận làm con hiếu để làm đầu
Tròn phận sự lo chi hổ thẹn
Cũng là Duyên Nợ tự tìm nhau

Tình vợ chồng bấy lâu gắn bó
Nghĩa sắt son chẳng để phai mầu
Đi bao lâu ... cũng là duyên nợ
Còn nợ duyên hẹn lại kiếp sau

Các thứ khác đều là Cộng Nghiệp
Dựa vào nhau tồn tại hồng trần
Xấu cùng chịu - Nhân lành cùng hưởng
Có chi đâu mà phải bận tâm

Luật Nhơn Quả hiển nhiên chi phối
Ơn Nghĩa Tình tự tới tìm nhau
Nợ ... trả vay ... tránh đâu cho khỏi
Tâm sáng trong , lòng chẳng lo âu
 
Last edited by a moderator:
Bán đúng gía, người mua đúng giá
Tiền trao mua sao lại cám ơn?
Cám ơn, rồi lại cám ơn
Người ban ơn cũng cám ơn người dùng...

Ta nháy mắt bên nây bờ biển
Bên kia bờ có cảm thấy không?
Hỏi xem con bướm vườn hồng
Cánh đập nhấp nháy cảm lòng ai kia...

Thế mới biết ở trong trời đất
Loài người là loài sống hợp-quần
Có ai sống lẻ một thân
Mà dám không nhận che thân áo quần...

Chén lương-thực mỗi lần so đũa
Một lần và vào miệng phải là
Công người gieo cấy ra hoa
Công người phơi giã gạo ra trắng ngần...

Xe với cộ muôn phần phức-tạp
Bậc chân tu hoằng-pháp nơi xa
Đằng-vân phép ấy của ta
Boeing, Airbus phi ra dậm ngàn...

Cộng-nghiệp là trồng xuống rừng cây
Đời con đời cháu rừng nầy hưởng chung
Mười năm chặt xuống ta cùng
Cất nhà cất cửa ta dùng đời sau...

Thụ-nhân trồng chờ mong thế-kỷ
Chính người trồng tri-bỉ rõ-ràng
Bách-niên lợi-ích mang-mang
Ta đã chết mất có màng chi đâu...

Nhưng cũng bởi trăm nghìn năm trước
Của đồng-lần trôi tuốt xuống ta
Giờ ta góp tiếp gọi là
Nợ duyên vay trả khéo mà lo toan...
 
Last edited:
* Những gì Lão Ma Đầu nói thật ra chẳng phải câu nói cảm ơn tự đáy lòng mà chỉ là phép lịch sự

Ngay cả những người Tu theo thập thiện , khi hành pháp bố thí , nhận lời cảm ơn của người xin mà lòng thấy hoan hỉ đã là ... hỏng . Bố thí xong mà còn cảm nhận được ta vừa làm 1 việc Thiện , cũng là ...hỏng . Chỉ Tâm niệm là ta vừa làm được 1 điều cần làm thôi .

* Lão hiểu nghĩa Cộng Nghiệp ở phạm vi quá hẹp . Nhưng cũng đúng chứ không sai ( đúng theo nghĩa hẹp ).

Giữa Đạo và Đời có những việc không nên nói rộng trừ phi là Đồng Tu , vì càng nói rộng người Đời càng dễ hiểu nhầm , thậm chí có khi còn bị gán cho tội phỉ báng
 
Hì hì, Lão thanglong,
Tui không tin kiếp trước, kiếp sau. Nên tui cố sống xứng đáng từng giờ, từng phút kiếp nậy. Thiên-đàng hay địa-ngục cũng tại nơi đây.
Tui đồng ý với Lão: "Ngay chính trong tâm ta mà "muốn" thành Phật, thì cũng hỏng rồi!" Khó à nha! May mà tâm-hồn tui đơn-giản. Tui chỉ ước mong được trở thành một công-cụ hèn mọn, phục-vụ người khác theo khả-năng, như chính tui đã được phục-vụ, là tui mãn-nguyện.

Tui rất ngưỡng-mộ, rất kính-trọng Đức Đạt-lai Lạt-ma. Gởi Lão bài dưới đây. Tuy không đúng hết là điều tui nghĩ. Nhưng là một bài rất hay. Tui thích nhứt là câu của Ngài:
- Người ta nên sống với một trái tim nồng ấm.

Thân.


Chương-trình 20/20:
“What is Heaven? Where is it? How do we get there?” / Barbara Walters

Một bài viết quá hay. Phật giáo có lẽ đã "chinh phục" được lòng tin của nữ phóng viên nổi tiếng này. Tuy nhiên, bà ta là người của công chúng nhất là trong lãnh vực truyền thông nên bà ta không thể tuyên bố công khai đức tin tôn giáo riêng của mình để giữ sự khách quan trong mắt khán thính giả. Nhưng qua hành động phỏng vấn Dalai Lama liên tiếp mấy năm liền đủ cho thấy sự ái mộ của bà dành cho ngài rồi, một điều chưa từng xảy ra cho các vị chức sắc cao của các tôn giáo khác.



Bài viết mừng sinh-nhật thứ 77
của đức Đạt-Lai-Lạt-Ma thứ 14 (July 6, 2012):




THIÊN-ĐÀNG LÀ GÌ? THIÊN-ĐÀNG Ở ĐÂU?
LÀM SAO ĐI ĐẾN ĐÓ?
thienduong1.jpg
[FONT=arial, helvetica, sans-serif]Những câu hỏi của tựa bài viết này chính là đề mục của một chương-trình 20/20: “What is Heaven? Where is it? How do we get there?” do Barbara Walters thực-hiện, đã được phát sóng ngày 6, tháng 7, 2012 trên truyền hình “abc” Hoa-Kỳ. Bà là một phóng-viên kỳ-cựu trong giới truyền-thông từ năm 1961 cho đến nay. Sinh ngày 25, tháng 9, 1929 cả Bố và Mẹ đều là người Do-Thái (Jewish).

Trong chương-trình nói trên, Barbara đã phỏng-vấn một số các vị lãnh-đạo tinh-thần của mọi tôn-giáo: Do-Thái-Giáo, Bà-La-Môn, Hồi-Giáo, Tin-Lành, Thiên-Chúa-Giáo, Phật-Giáo… cho đến những tù-nhân khủng bố trong các trại giam (những tín-đồ cuồng đạo tin-tưởng rằng chết đi bằng cách ôm bom tự sát thì sẽ được lên Thiên-Đàng. Chúng mù-quáng không biết rằng giết người là trọng tội nên ngày nay phải bị chung thân trong lao-lý ngục-tù).

Bà cũng cho khán-giả thấy hình-ảnh ứng-cử-viên đảng Cộng-Hòa, ông Willard Mitt Romney, một đại-thương-gia Hoa-Kỳ , sanh ngày 12, tháng 3, 1947; đã nói với mọi người trong một buổi vận-động tranh-cử Tổng-Thống rằng ông theo và tin vào đạo Mormon. Qua lời của một mục sư mà Barbara nói chuyện thì người theo đạo Mormon hoàn-toàn quyết-đoán rằng khi chết đi tất-cả họ sẽ được trở về nhà Đức Chúa Cha trên Trời: đó chính là Thiên-Đàng.

Ngoài ra, Barbara cũng phỏng-vấn các khoa-học-gia, nhà tâm-lý cho đến những bệnh-nhân đã từng có kinh-nghiệm chết đi (trong vòng 4 phút) rồi được sống lại; xem họ có thấy Thiên-Đàng trong khoảng-khắc “Chết” đó hay không? Phần lớn ai cũng xác quyết rằng họ được gặp lại Ông-Bà, Cha Mẹ… Những người thân trong giòng họ đã quá vãng.

Một số ca khúc cũng như trích đoạn phim được trình chiếu xen kẽ trong buổi phỏng-vấn nói về Thiên-Đàng như: “Ghost” do Demi Moore và Patrick Swayze thủ vai chính. Hoặc “Bruce Almighty” với tài-tử Jim Carrey trong vai người tường-trình về thời-tiết trên truyền-hình địa-phương và Morgan Freeman trong vai Thiên-Chúa (God), một cuốn phim hài hước nhưng rất ý-nghĩa mà chúng tôi đã vô cùng yêu thích khi xem.

Có hai nhân-vật nổi bật trong chương-trình 20/20 của Barbara Walters, xin được đề cập đến trong bài viết này:

*Người thứ nhất: là ông Joel Scott Osteen, sinh ngày 5 tháng 3, 1963 - một mục-sư rất nổi tiếng của Hội-Thánh Lakewood, vùng Houston, Texas; có giờ phát hình trên 100 quốc-gia khắp nơi toàn thế-giới. Barbara đã cho khán-giả biết tổ-chức của mục-sư trẻ này cùng phu-nhân là bà Victoria Osteen (cũng là ca-sĩ chính trong các chương-trình giảng-đạo của Hội-Thánh) thâu về được trung-bình khoảng 17 triệu đô (US) hằng năm nhờ vào tiền quyên góp của các tín-đồ.

Barbara cũng đặt thẳng những câu hỏi như: “Thiên-Chúa có muốn ai ai chúng ta cũng thật giàu có như ông-bà mục-sư không?” Hoặc: “Theo như lời ông giảng thì chỉ có những ai tin Chúa, vô đạo của ông mới vào được cổng Thiên-Đàng, thế còn những người theo các tôn-giáo khác thì sao? Chẳng lẽ họ bị sa hỏa-ngục hết chỉ vì không tin Chúa?”…

Mục-sư Osteen trả lời ngay:“Tôi không phải là Thiên-Chúa nên không có quyền phán xét bất cứ một ai; ngay cả những người theo các tôn-giáo khác. Nhiệm-vụ của tôi là phải rao giảng về niềm tin đối với Thiên-Chúa, chỉ có Chúa mới có thẩm-quyền ban cho con người những gì họ cần cũng như Chúa có quyền năng cho họ vào được Thiên-Đàng hay không!”

Chúng tôi phải lấy làm khâm-phục về sự trả-lời vô cùng khôn-khéo của mục-sư Osteen với những câu hỏi “hóc-búa” mà Barbara Walters đã đặt ra.

*Vị thứ hai: chính là đức Đạt-Lai-Lạt-Ma.

Theo Tự-Điển Bách-Khoa-Toàn-Thư thì: Đạt-Lại-Lạt-ma (tiếng Tây Tạng: ཏཱ་ལའི་བླ་མ་) hay Đạt-Lai Lạt-Ma hoặc Đa-Lai-La-Ma là danh-hiệu một nhà lãnh-đạo tinh-thần của Phật-Giáo Tây-Tạng được vua Mông Cổ Altan Khan phong cho phương-trượng của trường phái Cách-Lỗ (bo. དགེ་ལུགས་པ་, hay Hoàng giáo) vào năm 1578. Ngài được xem là hiện thân lòng từ-bi của Chư Phật và Bồ-Tát; được tái sinh trở lại kiếp người để cứu giúp chúng sanh. Danh-hiệu Đạt-Lai Lạt-Ma cũng được hiểu là Hộ-Tín, tức là "Người bảo vệ đức tin". Huệ-Hải: "Biển lớn của trí-tuệ". Pháp-Vương: "Vua của Chánh-Pháp". Như-Ý-Châu: "Viên bảo châu như ý". (ngưng trích)

Ngài được trao giải Nobel Hòa-Bình năm 1989, đồng thời là người đại diện Phật-Giáo xuất-sắc hiện nay trên thế-giới. Các tác-phẩm ngài viết được rất nhiều người đọc, nhất là ở các nước Tây phương (trong đó có chúng tôi).
[/FONT]

[FONT=arial, helvetica, sans-serif]Xin ghi lại đây chi-tiết phần phỏng vấn của Barbara [/FONT][FONT=arial, helvetica, sans-serif]Walters với đức Đạt-Lai-Lạt-Ma về hai chữ “Thiên-[/FONT][FONT=arial, helvetica, sans-serif]Đàng”; phần lớn dựa theo cách chuyển dịch qua [/FONT][FONT=arial, helvetica, sans-serif]tiếng Việt của tác-giả Tuệ-Uyển. [/FONT]
[FONT=arial, helvetica, sans-serif][/FONT]
[FONT=arial, helvetica, sans-serif](Ghi-chú: phần [/FONT][FONT=arial, helvetica, sans-serif]chữ nghiêng là câu hỏi và trả-lời, phần chữ thẳng là [/FONT][FONT=arial, helvetica, sans-serif]Barbara nói chuyện với khán-giả).[/FONT]
[FONT=arial, helvetica, sans-serif]Barbara mở lời chào khi đến gặp Đức Đa-Lai-Lạt-Ma:[/FONT]
[FONT=arial, helvetica, sans-serif][/FONT]
[FONT=arial, helvetica, sans-serif]- Xin cảm ơn Đức Thánh Thiện, đã cho phép tôi đến thăm viếng nơi này.[/FONT]
[FONT=arial, helvetica, sans-serif]Đức Đạt Lai Lạt Ma là một lãnh tụ được nhiều người quý mến, ngài rất vui tính và đặc biệt. Ngài được xem là vị hóa thân thứ 14 của Đức Phật từ bi và tuệ trí. Hàng triệu người tin tưởng đức Đạt Lai Lạt Ma là một vị Phật Sống.[/FONT]
[FONT=arial, helvetica, sans-serif][/FONT]
[FONT=arial, helvetica, sans-serif]- Với một lòng tôn kính sâu xa, thưa Đức Thánh Thiện, tôi muốn hỏi rằng, ngài có phải là một vị Thần Thánh không? (Are you a God?)[/FONT]
[FONT=arial, helvetica, sans-serif][/FONT]
[FONT=arial, helvetica, sans-serif]- Không! (Đức Đa-Lai-Lạt-Ma cười & trả lời)[/FONT]
[FONT=arial, helvetica, sans-serif][/FONT]
[FONT=arial, helvetica, sans-serif]- Không? (Barbara lập lại)[/FONT]
- Hôm nay là một ngày mà đôi mắt tôi (ngài lấy kính ra) hơi nhức nhối. (cười) Nếu tôi là một vị Thần Thánh thì mắt tôi đã không khó chịu như thế này! (cười)
[FONT=arial, helvetica, sans-serif][/FONT]
[FONT=arial, helvetica, sans-serif]- Nếu Đức Đạt-Lai-Lạt-Ma không phải là một vị Thần Thánh. Vậy xin cho biết ngài là gì? Có phải ngài là một vị thầy?[/FONT]
[FONT=arial, helvetica, sans-serif]- Đúng vậy, tôi nghĩ mình là một vị thầy.[/FONT]
[FONT=arial, helvetica, sans-serif][/FONT]
[FONT=arial, helvetica, sans-serif]Đức Đạt Lai Lạt Ma bây giờ đã 77 tuổi, mỗi năm chủ trì hai tuần lễ giảng dạy Phật Pháp. Hàng trăm khách hành hương cùng với những tu-sĩ Tây-Tạng đã lắng nghe lời dạy được diễn dịch qua nhiều ngôn ngữ của ngài, có khi kéo dài cả ngày. Đức Đạt Lai Lạt Ma là một học giả thông-thái nổi tiếng. Phật Giáo không tin vào Thượng-Đế theo cách của người Ki-Tô-Giáo nhưng tin là có những cõi Thiên-Đàng.[/FONT]
[FONT=arial, helvetica, sans-serif][/FONT]
[FONT=arial, helvetica, sans-serif]- Thiên-Đàng ở đâu thưa ngài?[/FONT]
[FONT=arial, helvetica, sans-serif]- Kinh điển Đạo Phật diễn tả, ở trong mười phương, đông, tây, nam, bắc, trên, dưới ... Những sách vở cổ truyền của Tây Tạng diễn tả 6 loại địa ngục và 6 loại Thiên-Đàng.[/FONT]
[FONT=arial, helvetica, sans-serif][/FONT]
[FONT=arial, helvetica, sans-serif]- Đức Thánh Thiện, xin ngài diễn tả quan điểm của đạo Phật về Thiên-Đàng.[/FONT]
[FONT=arial, helvetica, sans-serif]- Rất hạnh phúc, rất vui sướng. Nơi tốt nhất để phát triển tâm linh xa hơn.[/FONT]
[FONT=arial, helvetica, sans-serif][/FONT]
[FONT=arial, helvetica, sans-serif]Đây là chỗ mà Ki-Tô-Giáo và Phật-Giáo không đồng ý với nhau.[/FONT]
[FONT=arial, helvetica, sans-serif][/FONT]
[FONT=arial, helvetica, sans-serif]Đức Đa-Lai-Lạt-Ma nói tiếp:[/FONT]
[FONT=arial, helvetica, sans-serif]- Đối với người Phật tử, mục tiêu sau cùng không phải là chỉ đến đấy [rồi thôi] nhưng mà để thành Phật,...[/FONT]
[FONT=arial, helvetica, sans-serif][/FONT]
[FONT=arial, helvetica, sans-serif]- Vậy thì Thiên-Đàng không phải là một nơi thường trụ, mà giống như là một nơi chờ đợi (waiting place). Không phải là nơi cuối cùng của nó (not the end of itself) phải không thưa ngài?[/FONT]
[FONT=arial, helvetica, sans-serif]- Vâng. Đạo Phật tin rằng sau khi chúng ta chết, chúng ta sẽ tái sinh hết lần này đến lần khác, sẽ sống trong nhiều kiếp sống.[/FONT]
[FONT=arial, helvetica, sans-serif][/FONT]
[FONT=arial, helvetica, sans-serif]- Có nghĩa là cách sống con người càng tốt trên trái đất trong kiếp này thì kiếp sống tới sẽ càng tốt hơn?[/FONT]
[FONT=arial, helvetica, sans-serif]- Đúng thế![/FONT]
[FONT=arial, helvetica, sans-serif][/FONT]
[FONT=arial, helvetica, sans-serif]- Và cách sống xấu-xa – gian-ác ở kiếp này, thì kiếp sau cuộc sống sẽ càng tệ hại hơn nữa, đúng không ạ?[/FONT]
[FONT=arial, helvetica, sans-serif]- Nếu thái độ của bạn tốt lành, là một người biết sống với lòng từ bi hỷ xả thì kiếp sống tương lai của bạn sẽ là ở Thiên-Đàng. Nếu bạn làm những việc tiêu cực, tổn hại, tổn thương người khác, thì đương nhiên bạn sẽ rơi xuống địa ngục.[/FONT]
[FONT=arial, helvetica, sans-serif][/FONT]
[FONT=arial, helvetica, sans-serif]- Như vậy đối với Phật Giáo, nếu ai làm những việc tốt, sống từ bi thì sẽ được lên Thiên-Đàng với một cuộc sống hạnh phúc. Trong sự tái sinh của ngài, ngài sẽ trở lại, sống như một con người tốt lành, có đúng vậy không ạ?[/FONT]
[FONT=arial, helvetica, sans-serif]- Ô, Vâng![/FONT]
[FONT=arial, helvetica, sans-serif][/FONT]
[FONT=arial, helvetica, sans-serif]- Hay nói một cách khác nếu là người xấu xa tội lỗi, họ sẽ phải bị đầu thai thành một con thú?[/FONT]
[FONT=arial, helvetica, sans-serif]- Đúng vậy! Nếu một người nào đó, làm những việc vô cùng tệ hại, như giết người, trộm cướp, kiếp tới chúng có thể sinh ra trong thân thể của một con thú.[/FONT]
[FONT=arial, helvetica, sans-serif][/FONT]
[FONT=arial, helvetica, sans-serif]Đạo Phật tin tưởng rằng, ngay cả những con thú có thể cải hóa đời sống thành loài người trong những kiếp sau.[/FONT]
thienduong2.jpg
Con chó hiền lành, dễ-thương của tác-giả

[FONT=arial, helvetica, sans-serif]- Vậy thì nếu đó là một con chó rất dễ thương, nó có thể thoát khỏi địa ngục như đời sống của thú vật, và chuyển lên một đời sống tốt đẹp hơn chứ?[/FONT]
[FONT=arial, helvetica, sans-serif]- Đúng đấy![/FONT]
[FONT=arial, helvetica, sans-serif][/FONT]
[FONT=arial, helvetica, sans-serif]- Tôi biết nhiều con chó, tôi có nuôi chó, chúng có những đời sống thật hiền lành, thật tốt, thế thì chúng có thể trở lại kiếp khác tốt hơn nữa phải không?[/FONT]
[FONT=arial, helvetica, sans-serif]- Tôi nghĩ bà có kinh nghiệm rồi đó. Hãy so sánh những con vật hiền lành với những người có trái tim nồng ấm biết cách sống thiện, còn một số con chó dữ chỉ biết cắn xé nhau thì làm sao hóa kiếp tốt hơn được (cười). Vì thế những con chó dễ thương, tương lai của chúng sẽ tốt đẹp hơn (cười).[/FONT]
[FONT=arial, helvetica, sans-serif][/FONT]
[FONT=arial, helvetica, sans-serif]- Có phải mọi người đều tái sinh?[/FONT]
[FONT=arial, helvetica, sans-serif]- Theo quan điểm của đạo Phật thì đúng như vậy![/FONT]
[FONT=arial, helvetica, sans-serif][/FONT]
[FONT=arial, helvetica, sans-serif]Vị Thánh Vương (God King) thứ 14 của Tây Tạng sinh ra trong nền văn hóa Tây Tạng được tìm thấy sau khi người tiền nhiệm thứ 13 qua đời. Ngài được khám phá bởi một phái đoàn tu sĩ dày công tìm kiếm và phải vượt qua nhiều cuộc thử nghiệm, thế rồi cậu bé 3 tuổi Tenzin Gyatso, được tuyên bố là hậu thân của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 13. Tenzin Gyatso và gia đình sau đó rời nhà để được chuyển đến Điện Potala ở thủ đô Lhasa của Tây Tạng.[/FONT]
[FONT=arial, helvetica, sans-serif][/FONT]
[FONT=arial, helvetica, sans-serif]- Thưa Đức Thánh Thiện, ngài được tin là hậu thân của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 13. Khi ngài là một cậu bé, ngài có thể chỉ ra những món đồ dùng của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 13 đúng không ạ?[/FONT]
[FONT=arial, helvetica, sans-serif]- Điều ấy đúng là như thế![/FONT]
[FONT=arial, helvetica, sans-serif][/FONT]
[FONT=arial, helvetica, sans-serif]- Cho nên mọi người tin rằng ngài là hóa thân của của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 13. Như vậy có phải những điều ấy đến từ ký ức của kiếp sống trước?[/FONT]
[FONT=arial, helvetica, sans-serif]- Khi tôi còn rất trẻ, dường như những ký ức rất rõ ràng. Nhưng bây giờ hết rồi.[/FONT]
[FONT=arial, helvetica, sans-serif][/FONT]
[FONT=arial, helvetica, sans-serif]- Vậy thì mục tiêu của tái sinh hóa thân là gì? Tại sao không cứ ở trên Thiên Đàng thưa ngài?[/FONT]
[FONT=arial, helvetica, sans-serif]- Phật Giáo tin rằng mục tiêu tối hậu là Niết-Bàn hay Giác-Ngộ, trong thể trạng toàn tri toại nguyện. Niết-Bàn cao nhất là Quả Phật, hoàn toàn loại trừ tất cả những cảm xúc tiêu cực, và điều ấy tự động đưa đến giác ngộ.[/FONT]
[FONT=arial, helvetica, sans-serif][/FONT]
[FONT=arial, helvetica, sans-serif]- Ngài là một bậc giác ngộ chứ, thưa Đức Thánh Thiện?[/FONT]
[FONT=arial, helvetica, sans-serif]- Không. Tôi không biết điều gì sẽ xảy ra tối nay (cười)… Và ký ức tôi không nhớ điều gì đã xảy ra hôm qua. Hoàn toàn quên cả rồi (cười).[/FONT]
[FONT=arial, helvetica, sans-serif][/FONT]
[FONT=arial, helvetica, sans-serif]- Vậy thì nếu ngài giác ngộ, ngài sẽ nhớ được tất cả?[/FONT]
[FONT=arial, helvetica, sans-serif]- Ô vâng.[/FONT]
[FONT=arial, helvetica, sans-serif][/FONT]
[FONT=arial, helvetica, sans-serif]- Ngài chưa đạt đến thể trạng ấy, chỉ phần nào đó thôi chứ gì?[/FONT]
[FONT=arial, helvetica, sans-serif]- Không, tôi xem tôi chỉ như một con người như những người khác. Không quá đặc biệt ...[/FONT]
[FONT=arial, helvetica, sans-serif][/FONT]
[FONT=arial, helvetica, sans-serif]Màn ảnh chuyển sang khúc phim chiếu cảnh một người được Đức Đạt-Lai-Lạt-Ma choàng vào cổ giải khăn màu trắng, đó chính là Richard Geer, tài-tử nổi tiếng trong giới Hollywood Hoa-Kỳ, anh đã tìm học đạo Phật hơn 40 năm rồi. Đôi phút trò chuyện với Richard Geer xong, Barbara Walters tuyên bố:[/FONT]
[FONT=arial, helvetica, sans-serif]- Có lẽ từ trước đến giờ Đức Thánh Thiện Đạt-Lai-Lạt-Ma là một trong những con người vĩ đại nhất đã bước chân trên trái đất này![/FONT]
[FONT=arial, helvetica, sans-serif]Đúng hay không, thì Đức Đạt Lai Lạt Ma cũng là một người phi thường ngoại hạng. Trước ngài chưa một vị Đạt Lai Lạt Ma nào ra khỏi Tây Tạng, nhưng ngài đã du hành một cách rộng rãi, trở thành một biểu tượng của bất bạo động đáp lại cho sự gây hấn, công kích của những kẻ ác tâm. Năm 2003, đã có sáu mươi lăm nghìn người tập trung tại Công Viên Trung Tâm ở New York để nghe những giảng dạy của ngài về lòng từ bi, hỷ xả.[/FONT]
[FONT=arial, helvetica, sans-serif][/FONT]
[FONT=arial, helvetica, sans-serif]- Con người có cùng khả năng như nhau cho dù giàu hay nghèo. Ngài đã từng nói rằng, mục tiêu của đời sống là để hạnh phúc. Thế thì con người sẽ phải hoàn thành việc này như thế nào?[/FONT]
[FONT=arial, helvetica, sans-serif]- Tôi nghĩ là người ta cần sống với một trái tim nồng ấm.[/FONT]
[FONT=arial, helvetica, sans-serif][/FONT]
[FONT=arial, helvetica, sans-serif]- Thế đấy có phải là chìa khóa cho hạnh phúc không?[/FONT]
[FONT=arial, helvetica, sans-serif]- Lòng từ bi ấy ban cho bạn sự tự tin hơn, điều ấy thật sự sẽ thay đổi thái độ của bạn.[/FONT]
[FONT=arial, helvetica, sans-serif][/FONT]
[FONT=arial, helvetica, sans-serif]- Nhìn vào thế giới hiện nay, chúng ta đang sống gần thiên đàng hay địa ngục thưa ngài?[/FONT]
[FONT=arial, helvetica, sans-serif]- Gần thiên đàng hơn, tôi tin là thế! (đức Đạt-Lai-Lạt-Ma khoan dung trả lời)[/FONT]
thienduong3.jpg

[FONT=arial, helvetica, sans-serif]Khi cuộc phỏng vấn qua đi, tôi chấm dứt một ngày với lòng chân thành của Đức Đạt Lai Lạt Ma, tôi cảm nghiệm rằng mình đã được làm việc thật sự với một vị lãnh tụ của thế giới.[/FONT]
[FONT=arial, helvetica, sans-serif][/FONT]
[FONT=arial, helvetica, sans-serif]- Cho phép tôi có thể hỏi ngài về một điều?[/FONT]
[FONT=arial, helvetica, sans-serif]- Vâng.[/FONT]
[FONT=arial, helvetica, sans-serif]- Tôi có thể hôn trên má ngài được không?[/FONT]
[FONT=arial, helvetica, sans-serif]- Ô vâng, được chứ! [/FONT]

thienduong4.jpg


<tbody>
</tbody>

[FONT=arial, helvetica, sans-serif]Và rồi tôi đã hôn trên má Đức Đạt Lai Lạt Ma, ngài cười ha hả. Sau đó ngài đã chỉ cho tôi cách hôn của người Tân-Tây-Lan như thế nào. Ngài ra dấu mím kín môi lại và hai người chạm đầu mũi vào nhau. [/FONT]
[FONT=arial, helvetica, sans-serif]Cả hai cùng cười vang và rồi ngài rời nhóm người quay phim để trở về lại chốn thiền-môn.[/FONT]
[FONT=arial, helvetica, sans-serif][/FONT]
[FONT=arial, helvetica, sans-serif]Chúng tôi vừa lược sơ qua buổi phỏng vấn của Barbara Walters trong chương trình truyền-hình 20/20 đài “abc” với chủ-đề: “Thiên-Đàng là gì? Thiên-Đàng ở đâu? Làm sao đi đến đó?”[/FONT]
[FONT=arial, helvetica, sans-serif][/FONT]
[FONT=arial, helvetica, sans-serif]Từ thưở bé thơ khi bắt đầu có trí khôn chúng tôi đã được Bố-Mẹ, Thầy-Cô dạy rằng phải sống tốt với mọi người trong gia-đình, thân-tộc, bằng-hữu, láng-giềng… Ngay cả những người không cùng huyết thống cũng không thể hành xử ác với họ, thấy kẻ thiếu thốn thì giúp đỡ, gặp người đau khổ phải ủi an. Các con hãy tạo-dựng Thiên-Đàng trong cuộc sống hiện-thực, đừng mang hỏa-ngục đến cho nhau. [/FONT]Lớn lên sau này lúc phải bon trải (bon-chen & từng-trải) với cuộc sống, bên cạnh những thành-công rực rỡ nơi chốn phồn-hoa đô-hội, chúng tôi thực sự đã gặp nhiều thất-bại cay đắng trong trường đời. Những lúc ấy tôi lại nhớ đến lời Mẹ dạy: “Ngọc kia không dũa, không mài. Cũng thành vô-ích cũng hoài Ngọc đi!” Nhớ hoài câu thơ này nên lúc nào tôi cũng tâm-niệm rằng mình phải sống “Ích Quốc, Lợi Dân” dù trong bất cứ hoàn cảnh nào phải giữ cái “Tâm” an-lạc.
[FONT=arial, helvetica, sans-serif][/FONT]
[FONT=arial, helvetica, sans-serif]Nói về chữ “Tâm” tôi chợt nhớ đến cuốn sách “Đường Về Xứ Phật” trong tập III của Hòa-Thượng Thích-Thông-Lạc. Thầy đã viết rằng: [/FONT]Bất động tâm định là tâm bất động trước các pháp, trước cảm thọ, chứ không phải là ngồi yên bất động. Đường lối tu tập của đạo Phật không phải diệt niệm thiện, niệm ác, mà phải xa lìa lòng ham muốn và các ác-pháp trong ta.
[FONT=arial, helvetica, sans-serif]Phải sống và nuôi lớn thiện-pháp, nghĩa là diệt tầm ác mà sống với tầm thiện (ly dục, ly ác-pháp), để đem lại cuộc sống an vui và hạnh-phúc cho mình, cho người. Khi sống với tầm thiện thì tâm ta thanh tịnh, không có hoàn cảnh, đối tượng nào khiến tâm ta dao động; do đó gọi là tâm giải thoát, không còn khổ đau trong kiếp sống làm người.

Người sống được như vậy gọi là nhập Bất Động Tâm Định hay là nhập Vô Tướng Tâm Định. Nên nhớ tâm thanh tịnh (tâm như đất) là tâm thiền định của đạo Phật, chớ không phải tâm hết vọng tưởng (chẳng niệm thiện, niệm ác). Tâm thanh tịnh là tâm có đủ đạo lực sai khiến (điều khiển) được sanh, già, bệnh, chết; tức là làm chủ nhân-quả, hay còn gọi là làm chủ sống chết (muốn chết lúc nào cũng được, muốn sống lúc nào cũng được).

[/FONT]
[FONT=arial, helvetica, sans-serif]Đó mới gọi là sanh tử tự tại! Tóm lại, muốn giải [/FONT][FONT=arial, helvetica, sans-serif]thoát thì phải nhập vào Bất Động Tâm Định. [/FONT]

[FONT=arial, helvetica, sans-serif]Nhờ đó [/FONT][FONT=arial, helvetica, sans-serif]mà dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu mới diệt sạch. Bất [/FONT][FONT=arial, helvetica, sans-serif]động tâm định là một tên khác của [/FONT]

[FONT=arial, helvetica, sans-serif]Sơ-Thiền, ly-[/FONT][FONT=arial, helvetica, sans-serif]dục, ly-ác-pháp. [/FONT]Đức Phật dạy để ly-dục, ly-ác-pháp nhập Sơ-Thiền. Khi gặp các

ác-pháp tấn công dữ dội thì phải cố gắng nhẫn-nhục. Ở đây, Phật dùng hình ảnh “cắn chặt răng

và dán chặt lưỡi lên nóc họng” ý nói cố gắng nén tâm, hết sức kham nhẫn chịu đựng để vượt

qua cơn thử thách của ác-pháp.

Nhờ tận lực như vậy ta mới có thể vượt qua cơn sóng gió bão bùng của tâm. "Thắng trăm trận
không bằng tự thắng mình, thắng mình mới là chiến công oanh liệt". Cuộc đời tu hành của chúng ta là một cuộc chiến đấu không ngừng, trường kỳ gian khổ chứ không phải tụng kinh, niệm chú, ngồi thiền mà chiến thắng được tham, sân, si, mạn, nghi, v.v... Đây là phương pháp ít khi dùng, vì cuộc đời người tu sĩ của đạo Phật sống trầm lặng một mình nên ít xảy ra các ác-pháp. Tuy nhiên, nếu thiếu sự phòng hộ sáu căn, khi tiếp duyên bên ngoài cũng có thể xảy ra dữ dội. (VIII / 92-100)

[FONT=arial, helvetica, sans-serif]Hãy tập niệm hằng ngày câu pháp hướng tâm: “Tâm như đất, lìa tham, sân, si là hết khổ”, sẽ có hiệu quả giải thoát trong những ngày cuối cùng của cuộc đời.[/FONT]

[FONT=arial, helvetica, sans-serif]Lúc bệnh tật khổ đau cũng như lúc gặp các ác-pháp thì con hãy nhắc tâm: “Tâm phải bất động trước các ác-pháp, không được sợ hãi, hãy bình-tĩnh, hãy gan dạ, tất-cả đều là do nhân-quả” [/FONT]Tâm như cục đất là tâm con đã xả sạch, chừng đó con chẳng cần tu tập thiền định nào cả, lúc nào con cần nhập định là nhập được ngay liền, không khó khăn, không mệt nhọc, không có phí sức. Tâm như cục đất, đó là sự ước muốn của con. Muốn cho tâm không còn tham, sân, si, mạn, nghi nữa là tâm sẽ hết khổ đau. Sự ước muốn như vậy, nếu con không cố gắng khắc phục tâm mình ly tham, đoạn ác-pháp thì làm sao tâm thành đất được.
[FONT=arial, helvetica, sans-serif]Muốn cho tâm thành đất thì con phải tu tập Bát Chánh Đạo. Nghĩa là nói cách thức sống ngăn ác và diệt ác-pháp, sanh thiện tăng trưởng thiện-pháp hay nói cách khác là sống toàn-thiện. [/FONT]Muốn sống toàn thiện thì phải có Chánh kiến, Chánh kiến tức là thấy đúng nhân-quả-thiện và ác, chứ không phải thấy đúng-sai-phải-trái-tốt-xấu…
[FONT=arial, helvetica, sans-serif]Trong cuộc sống bất cứ một việc gì khi xảy đến, chúng ta đều phải nhìn với lòng thiện, lòng từ, lòng bi, lòng hỷ, lòng xả. Nếu chúng ta nhìn thấy bất cứ việc gì với lòng bất thiện, không từ, không bi, không hỷ, không xả thì ác-pháp sẽ đến với chúng ta ngay. Vì thế tâm chúng ta sẽ khổ đau, và như vậy tâm không thể thành đất được. [/FONT]Muốn tâm thành đất chúng ta phải có sự tư duy, suy nghĩ thiện và ác trong bất cứ một sự việc gì xảy ra, thiện thì chúng ta tăng trưởng để mà sống, không làm khổ mình - khổ người, còn ác thì chúng ta tư duy suy nghĩ quét sạch những pháp-ác ấy ra khỏi tâm, để đem lại cho tâm một sự thanh-thản, an-lạc và vô-sự. Nhờ có tu-tập được như vậy thì cuộc sống mới có an vui, hạnh phúc. Muốn tâm thành đất thì chúng ta phải biết khéo-léo giữ-gìn tâm không phóng dật. Muốn thực-hiện điều này thì lúc nào cũng cần phải nhớ nhắc tâm:“Tâm không được phóng dật, phải định vào thân đi” hay “Tâm định vào hơi thở đi”, hoặc “Tâm như đất hãy lìa ngay tham-sân-si- mạn-nghi đi”.
[FONT=arial, helvetica, sans-serif]Trong tất cả câu pháp hướng này, tùy theo mỗi người mà chọn lấy cho mình một câu phù hợp với đặc tướng, còn riêng Thầy thì câu: “Tâm không được phóng dật phải định vào hơi thở đi”, thì rất phù hợp. Tại sao vậy? Tại vì câu này có hai tác dụng:[/FONT]
[FONT=arial, helvetica, sans-serif]1- Bắt buộc tâm không được phóng dật theo ra các pháp.[/FONT]
[FONT=arial, helvetica, sans-serif]2- Bắt buộc tâm phải định vào hơi thở (định vào thân).[/FONT]
[FONT=arial, helvetica, sans-serif]Nếu tâm không phóng dật là tâm thành đất, tâm thành đất là tâm bất động, tâm bất động là con đã viên mãn con đường tu tập theo Phật giáo của mình. (ngưng trích).[/FONT]
[FONT=arial, helvetica, sans-serif]Tất-cả chúng ta đang sống trên một xứ sở tự-do, nơi được mệnh danh là cường-quốc số 1 trên thế-giới. Thế nhưng có mấy ai đã từng tư-duy về cõi Thiên-Đàng như Barbara Walters? Hoặc vì quá bận rộn với đời sống vật chất? Hay vì Thiên-Đàng là chốn hư-ảo trong trí tưởng-tượng của con người? [/FONT]Đối với thiển-ý của chúng tôi thì Thiên-Đàng có thật ngay cõi hiện-sinh này nếu chúng ta biết tìm về Chân-Thiện-Mỹ, sống tha-thứ, hiền-hòa, tốt đẹp, không mang khổ đau, hay dằn vặt cắn xé nhau. Chúng tôi cũng tin chắc rằng những kẻ ác độc, gian tham, thích làm cho người khác đau đớn, lo sợ, khổ nhục, chúng sẽ không biết đến Thiên-Đàng là gì và cũng không tìm được Thiên-Đàng trong đời này hay trong những kiếp sau./.
[FONT=arial, helvetica, sans-serif][/FONT]
(Viết trong niềm tôn-kính mừng sinh-nhật thứ 77 của đức Đạt-Lai-Lạt-Ma thứ 14: July 6, 2012)
 
Kiếp trước ? Kiếp sau ? Hiện tại ? He he ... Lão vẫn nghĩ Cộng Nghiệp ; Nhân Quả theo nghĩa hẹp

Chẳng phải do Lão "Cố sống xứng đáng từng giờ , từng phút kiếp này" mà Lão gặp được bao người bạn tốt ( trong đó có tui ) hay sao ?

Đừng nói là Lão chưa sáng ra nha ! hì hì

* Đạt Ma Lạt Ma là một trường hợp đặc biệt . Tương truyền khi mất các vị Lạt Ma đều để lại di ngôn , người đời sau sẽ căn cứ vào đó để tìm vị Lạt Ma kế thừa

Đáng buồn là ... Tuy được cả thế giới tôn trọng , ngưỡng mộ , nhưng dưới mắt của mấy anh lãnh đạo TQ thì lại chẳng có ý nghĩa gì . Điều đó càng khẳng định : Âm - Dương hay Thiện - Ác luôn tồn tại song hành . Vì vậy mới là cõi Trần chứ không phải là Thiên Đường ( Theo nghĩa hẹp )
 
Mấy con mắt của tụi Trung-cộng là mấy con mắt cú vọ. Kể làm gì!
Gởi cho Lão một Địa-ngục của trần-gian, và một Thiên-đàng nơì trần-thế.
Thân.



[FONT=Times New Roman, Times, serif][FONT=Times New Roman, Times, serif]
[h=2]<big><big>Hạnh phúc xót xa</big></big>[/h] [h=4]<big><big>Phạm tín An Ninh</big></big>[/h]​
<big><big><big>Tôi vô cùng ngạc nhiên, khi nhận được một thiệp mời đám cưới gởi qua đường bưu điện, danh tánh nhà trai, nhà gái và cả cô dâu chú rể đều xa lạ. Gần nửa giờ ngồi “điểm danh” tất cả bà con, bè bạn xa gần, vợ chồng tôi và mấy đứa con cũng chẳng tìm ra “tông tích” họ là ai. Nghe bạn bè kể lại, một số không ít người Việt mình thích có nhiều thực khách tham dự tiệc cưới của con cháu. Khách càng đông càng chứng tỏ được thế giá của gia đình. Vì vậy có người chỉ gặp ai ở đâu đó một lần thoáng qua, cũng có thể trở thành “quan viên” hai họ. Hơn nữa, ở cái vương quốc nhỏ bé và hiền lành này, muốn tìm ai, cứ việc mở cuốn điện thoại niên giám hoặc vào guleside gõ cái tên là có ngay số phone và địa chỉ. Cũng có thể là do một ông bà khách nào đó được mời nhưng hồi báo không thể tham dự được nên vợ chồng tôi được chọn để “điền vào chỗ trống cho có đầy đủ ý nghĩa” chăng? </big></big></big>
<big><big><big>Địa điểm tổ chức tiệc cưới là một nhà hàng Tàu sang trọng nằm ngoại ô thành phố Oslo, không xa nơi tôi ở. Ngày đám cưới còn hơn một tháng, nhưng lại đúng vào ngày mà vợ chồng tôi phải sang London thăm vợ chồng cô con gái và mừng thôi nôi thằng cu cháu ngoại. Vé máy bay đã “búc” rồi. Vợ chồng cô con gái cũng đã lấy hè để đón chúng tôi. Nên dù có biết cha mẹ hay cô dâu chú rể có tên trong thiệp mời chăng nữa, chúng tôi cũng không thể tham dự được, huống hồ lại là một người nào đó không quen. Thấy tôi phân vân, bà xã cầm tấm thiệp màu hồng vất vào kệ sách, lắc đầu bảo “forget it!”</big></big></big>
<big><big><big>Sáng thứ Bảy, một tuần sau đó, khi đang sửa soạn hành lý, nghe điện thoại reo, tôi bốc máy lên nghe, nhưng không thể nhận ra người bên kia đầu dây. Một người đàn bà, tự giới thiệu tên Bích, rất lễ phép khi hỏi đúng cả tên lẫn họ của tôi.</big></big></big>
<big><big><big>- Vâng, đúng là tôi, nhưng chị có thể nói rõ hơn về chị không ạ, vì xin lỗi tôi không nhớ ra.</big></big></big>
<big><big><big>- Em là Bích Kiều đây, Lê Thị Bích Kiều, mà khi mới sang Na-uy, anh làm thông dịch giúp em đó. Tên em trong thiệp mời đám cưới là Yvonne Bich, chắc anh chị đã nhận được. Em đổi tên này sau khi có quốc tịch Na-uy. </big></big></big>
<big><big><big>Tôi giật mình nhớ ra ngay. Mặc dù trong thời gian làm thông dịch, giúp khá nhiều bà con người Việt mới đến định cư, có biết bao nhiêu cái tên làm sao nhớ hết. Hơn nữa cũng đã hơn 25 năm rồi còn gì. Nhưng đặc biệt, Lê Thị Bích Kiều thì tôi không thể nào quên. Sau khi thăm hỏi, Bích Kiều xin được đến thăm vợ chồng tôi vào lúc bốn giờ chiều. Cô bảo, gặp nhau sẽ có biết bao nhiêu điều muốn nói.</big></big></big>
<big><big><big>o O o</big></big></big>
<big><big><big>Thời gian còn ở trại tỵ nạn Bataan bên Phi Luật Tân, tôi may mắn được chọn làm phụ giảng cho các lớp học tiếng Nauy. Được thầy cô dạy kèm riêng, và nhờ phụ giúp mỗi ngày trong các lớp học cũng như làm thông dịch bất đắc dĩ cho những thuyền nhân mới đến đảo, nên tôi có một số vốn liếng tiếng Na-uy, một thứ ngôn ngữ hoàn toàn xa lạ với hầu hết người Việt nam lúc ấy. Và cũng nhờ cái vốn bì bõm này, khi sang định cư ở Na-uy, tôi được chọn làm thông dịch tạm thời cho Phòng Xã Hội và Sở Cảnh Sát thị xã, nơi gia đình tôi tạm cư. Thời gian này Na-uy nhận một số lượng khá đông thuyền nhân được tàu Na-uy vớt trên biển và một số trường hợp nhân đạo khác.</big></big></big>
<big><big><big>Nói là thông dịch chứ thực ra chỉ giúp bà con làm hồ sơ, khai lý lịch ở Sở Cảnh sát, xin trợ cấp ở Phòng Xã Hội, hoặc gặp bác sĩ, nha sĩ, hay vào bệnh viện khám và chữa bệnh. Cũng qua công việc này, tôi mới thấy rõ Na-uy là một quốc gia giàu lòng nhân đạo, mở rất rộng vòng tay, đối xử quá tốt với những người tỵ nạn mà họ cứu vớt, cưu mang. Công việc nhàn nhã mà lương bổng cũng khá, lại còn được cơ hội trau dồi ngôn ngữ mới, nên sau này, khi đã được chính thức nhận vào học và đi làm trong ngành ngân hàng bưu điện, tôi vẫn xin giữ cái “job” phụ này, nhưng chỉ làm thêm ngoài giờ hành chánh. </big></big></big>
<big><big><big>Tuy nhiên, bên cạnh những điều vui ấy, tôi cũng bị “tai nạn nghề nghiệp” không ít. Đặc biệt khi phải thông dịch cho những bà con mà tàu của họ bị bọn hải tặc tấn công. Nghe họ kể những cảnh nghiệt ngã, thương tâm trên biển, tôi vừa không nén được xúc động vừa ngại ngùng khi phải thông dịch lại bằng tiếng Na-uy. Hơn nữa lúc ấy tôi cũng chưa có đủ ngôn từ để diễn đạt những điều “tế nhị”. </big></big></big>
<big><big><big>Ngày ấy có một Viện Tâm Thần dành riêng cho người tỵ nạn, nằm trong Viện Đại Học Oslo, do bác sĩ Hauff, cũng là một giáo sư tâm lý học, điều hành. Ông là vị bác sĩ có lòng nhân hậu và rất tận tâm với nghề nghiệp. Những người tỵ nạn gặp điều không may, bị hải tặc đánh đập hãm hiếp, hay bị mất người thân trên đường vượt biển, đều được ông tận tình thăm nom, chăm sóc cũng như can thiệp Cơ quan Di Trú cho ưu tiên bảo lãnh gia đình và Sở Xã Hội cấp thêm nhiều phương tiện sinh hoạt, giải trí. Tôi sợ nhất là những lúc phải làm thông dịch để ông tâm tình, khuyên giải, an ủi nạn nhân, mà thời gian có khi kéo dài cả một vài ngày. Bởi vốn liếng tiếng Na-uy còn quá nghèo nàn, làm sao tôi có thể truyền đạt được những gì ông muốn nói. Có lần nghe ông dặn dò trước khi làm việc: </big></big></big>
<big><big><big>- Đây không phải một cuộc nói chuyện bình thường mà là một ca điều trị. Có điều, những bệnh nhân này chúng ta không chữa bằng thuốc mà chữa bằng ngôn ngữ.</big></big></big>





















[/FONT]
[/FONT]

[FONT=Times New Roman, Times, serif][FONT=Times New Roman, Times, serif]<big><big><big>Mà ngôn ngữ của tôi thuộc loại ăn đong, thì làm sao giúp ông chữa loại bệnh đặc biệt trầm kha này. Nhiều lần tôi xin từ chối, nhận mình không đủ khả năng, nhưng Phòng Xã Hội không tìm được người thông dịch khác, và bác sĩ Hauff cứ gật đầu bảo là ông tin tưởng ở tôi. Cuối cùng tôi phải yêu cầu ông nói thật chậm và dùng những từ ngữ tương đối đơn giản để tôi hiểu rõ, và nhất là không hiểu lầm, những gì ông nói. </big></big></big>
<big><big><big>o O o</big></big></big>
<big><big><big>Một hôm tôi được Văn Phòng Xã Hội cho biết, phải đi theo bà Kari Mette ra phi trường Fornebu đón một người tỵ nạn đặc biệt, được Na-uy nhận nhân đạo từ một trại tỵ nạn Thái Lan. Người này được đưa thẳng từ Thái Lan đến Na-uy, mà không qua trại tỵ nạn chuyển tiếp Bataan, như những người khác. Bà Kari Mette làm việc cho một nhà thờ công giáo, nhưng vì có nhiều khả năng và uy tín, nên được yêu cầu kiêm nhiệm đại diện cho Sở Tỵ Nạn trong khu vực thị xã.</big></big></big>
<big><big><big>Chúng tôi được vào tận cửa gate máy bay. Người mà chúng tôi đón hôm nay là một cô con gái trẻ, ngồi trên xe lăn, trên người choàng một tấm chăn mỏng, được một cô tiếp viên hàng không đẩy ra giao cho chúng tôi cùng túi hành lý nhỏ và một phong bì đựng hồ sơ có in huy hiệu Cao Ủy Tỵ Nạn LHQ. Trông cô ta tiều tụy, xanh xao. Tôi giới thiệu và dịch vài lời chào mừng của bà Kari Mette. Khi đưa tay nhận bó hoa hồng từ bà Kari Mette, cô gật đầu, lí nhí hai tiếng cám ơn. Theo sau bà Kari Mette, tôi đẩy cô gái theo một lối đi riêng, không phải qua kiểm soát. Một chiếc xe tản thương và cô ý tá chờ sẵn bên ngoài. Khi phụ dìu cô gái lên nằm trên một băng ca trong xe, tôi mới biết là cô ta đang mang bầu. Theo yêu cầu của cô ý tá, tôi ngồi luôn trên xe tản thương, tháp tùng về bệnh viện. Bà Kari Mette lái xe chạy theo sau.</big></big></big>
<big><big><big>Ở phòng nhận bệnh, khi nghe bà Kari Mette nói chuyện với vị bác sĩ, tôi mới biết cô gái này có tên Lê thị Bích Kiều, 21 tuổi, bị hải tặc giam giữ ở một hoang đảo ngoài khơi Thái Lan gần một năm, trước khi được một lực lượng tuần cảnh phối họp với hải quân Thái cứu thoát. Cô ta đang mang thai hơn năm tháng, sức khỏe rất yếu. Việc ưu tiên phải làm là giúp cô sớm hồi phục sức khỏe và bảo vệ thai nhi.</big></big></big>
<big><big><big>Khi trả lời một số câu hỏi của bác sĩ, cô luôn nhìn tôi bằng đôi mắt thật buồn và ái ngại, Một vài câu hỏi cô ngại ngần không muốn trả lời. Tôi từ tốn bảo cô cứ yên tâm, nếu điều nào chưa muốn nói ra, cô không cần thiết phải trả lời, tôi sẽ liệu cách để nói lại với bác sĩ. Nhưng sau đó, tôi mới hiểu ra, người cô ngại chính là tôi chứ không phải ông bác sĩ. Mặc dù trước khi bắt đầu làm việc, tôi đã nói với cô là những người làm thông dịch như tôi đều phải ký giấy cam kết taushetsplikt (bổn phận bảo mật những điều tai nghe mắt thấy). Cô được y tá đưa vào phòng tắm rửa và thay áo quần bệnh viện. Khi trở ra, cô tươi tỉnh hơn, bây giờ nhìn kỹ tôi thấy cô có khuôn mặt khá xinh, dù đôi mắt thật buồn. Theo cô y tá đưa cô lên một phòng riêng ở tầng ba, tôi bảo y tá bật cao đầu chiếc giường và đỡ cô ngồi dậy theo yêu cầu của cô, dịch cho cô nghe những điều dặn dò của bác sĩ, hỏi cô thích ăn uống những gì để tôi nói lại với cô y tá, rồi chào cô ra về, sau khi chúc cô ăn ngon và tối nay có một giấc ngủ thật bình yên. Cô nhìn tôi, nói cám ơn rồi vội vàng cúi xuống. Thoáng qua đôi mắt, tôi biết cô băn khoăn lo lắng, khi phải ở lại một mình. Tôi ghi số điện thoại trên mảnh giấy nhỏ đưa cô y tá. Bảo là trường hợp bệnh nhân hay y tá cần điều gì, cứ gọi cho tôi.</big></big></big>
[/FONT]
[/FONT]

[FONT=Times New Roman, Times, serif][FONT=Times New Roman, Times, serif]<big><big><big>Kể từ hôm ấy, ngoài bổn phận thông dịch tôi còn là người thân quen duy nhất của cô. Hôm nào cô ngỏ ý thèm các thức ăn Việt nam, tôi bảo bà xã tôi làm rồi mang đến cho cô, cùng mấy tờ báo Văn Nghệ Tiền Phong, và tập truyện của ông Duyên Anh mà cô thích đọc.</big></big></big>
<big><big><big>
GetInline.aspx
</big></big></big> <big><big><big>Sau một tuần lễ, sức khỏe của cô khá hơn, nhưng y tá cho biết tâm trí chưa ổn định, cô thường giật mình thức giấc rồi la hét, khóc lóc lúc nửa đêm. Cứ vài ngày, bác sĩ Hauff từ Viện Tâm Thần đến thăm, cho cô quà, an ủi và khuyên cô hãy đọc sách, xem TV, cần nghĩ tới đứa bé sắp chào đời, dù gì nó cũng là giọt máu của mình. Có điều gì cần, hoặc cảm thấy nặng nề trong lòng, cô cứ nói ra mỗi lần ông đến thăm.</big></big></big>
<big><big><big>Cô không phải đến Sở Cảnh Sát để làm hồ sơ di trú như những người tị nạn khác, mà do yêu cầu của Sở Tỵ Nạn, vị trưởng phòng Cảnh sát ngoại kiều đã đích thân đến bệnh viện để gặp cô sáng hôm sau. Qua làm việc, tôi được biết cô gái sinh ra và lớn lên ở Đà Lạt. Trước 75, mẹ cô là cô giáo và cha là một sĩ quan cấp tá, bị mất tích tại Đà Nẵng khi Vùng I vvvvc d1i tản. Vượt biên từ Rạch Giá cùng vị hôn phu. Anh là con trai lớn của một người bạn cùng khóa Võ Bị với cha cô. Chiếc thuyền nhỏ chở theo 47 người, ra khơi ba ngày thì gặp hai chiếc ghe đánh cá của Thái Lan chặn lại. Cả bọn gần 20 tên mang dao búa và cả súng nữa, xông lên thuyền uy hiếp. Anh tài công bị giết đầu tiên bằng búa đánh vào đầu, một vài thanh niên khỏe mạnh có ý chống cự, liền bị chém chết. Chúng chia nhau lục soát trên tàu và trên từng người để cướp vàng bạc, đồng hồ. Trước khi rời khỏi thuyền, chúng phá hỏng máy, và bắt theo khoảng mười cô gái. Khi hai tên trong bọn kéo Kiều đi, người vị hôn phu của Kiều xông đến định giật lại Kiều, bị chúng bắn bị thương rồi đạp xuống biển, trước tiếng la khóc thất thanh của Kiều cùng những cô gái khác. </big></big></big>
<big><big><big>Vừa mới lên tàu, bọn hải tặc luân phiên hãm hiếp những cô gái bị chúng bắt theo. Tiếng van xin la khóc quyện vào âm thanh của những ngọn sóng dường như cũng đang thét gào phẫn nộ. Chỉ duy nhất có Kiều được thoát, không bị hiếp, nhưng bị cột cả hai tay vào phía sau phòng lái, và phải chứng kiến hành động dã man, bỉ ổi của bọn dã thú, cùng những khuôn mặt sợ hải đau đớn uất hận tột cùng của những cô gái nạn nhân. </big></big></big>
<big><big><big>- Tại sao cô lại được tha, không bị chúng hiếp? Anh cảnh sát ngạc nhiên hỏi.</big></big></big>
<big><big><big>- Làm sao được tha. Có lẽ thấy tôi có chút nhan sắc, nên tên thuyền trưởng dành riêng tôi cho hắn. Khi ấy hắn đang lái tàu! Cô gái sụt sùi.</big></big></big>
<big><big><big>Tối hôm ấy, cô đã bị cướp đi đời con gái. Qua một ngày kinh hãi, biết mình không thể chống cự, cô đã nằm im phó thác cho số phận. Trong khi thân xác bị dày vò, cô nghĩ đến cảnh người yêu vừa bị giết tức tưởi trưa nay, cắn chặt lưỡi giữa hai hàm răng ứa máu.</big></big></big>
<big><big><big>Tay thuyền trưởng hải tặc không đánh đập hành hạ cô như những cô gái khác. Hắn săn sóc, mang cho cô một tô cháo cá nóng, nhỏ nhẹ dỗ dành cô ăn, nhưng cô không thể nào nuốt nổi, dù bụng đang đói. Nằm thiếp đi cả một ngày trong phòng lái, khi nghe tiếng ồn ào gọi nhau của bọn hải tặc, giật mình thức dậy, cô thấy tàu cặp vào một hòn đảo.</big></big></big>
<big><big><big>Sau khi ra lệnh cho đám thuộc hạ quăng neo, tay thuyền trưởng cõng cô trên lưng, lội vào bờ. Cô ngạc nhiên rùng mình khi không thấy các cô gái khác. Số phận họ ra sao? Cô bịt kín hai tai, nhưng tiếng van xin kêu khóc hãi hùng của ngày hôm qua như muốn vỡ tung đầu óc. Cô tưởng tượng họ bị hiếp cho đến chết, rồi quăng xác xuống biển. Thật thảm thương tội nghiệp. Nhưng dù sao họ cũng không phải sống cả một đời thừa thãi trong nỗi dày vò, mặc cảm và vô vọng như cô. Biển xanh sẽ ôm ấp vỗ về cả thân xác lẫn linh hồn họ. Là cánh hoa tả tơi duy nhất còn sót lại sau một ngày đêm dông bão, cô ví mình chẳng khác nào rác rưởi tắp vào một nơi hoang vắng. Cô tự hỏi, đó có phải là điều may mắn? </big></big></big>
<big><big><big>Anh cảnh sát ngồi bất động nghe cô kể, thỉnh thoảng ngước mặt lên trần nhà để giấu những giọt nước mắt. Tôi thầm tội nghiệp cho anh ta, một người sinh ra và lớn lên trên một vương quốc an bình, giàu có, hà cớ gì phải khóc cho nỗi đau thương, bất hạnh của dân tộc tôi. Chúng tôi dừng lại khi thấy cô gái sụt sùi. Tôi đứng dậy đi lấy mấy tờ giấy soft cho cô lau nước mắt và mời cô một ly nước saft.</big></big></big>
<big><big><big>- Rồi đời sống của cô trên đảo ra sao trước khi cô được cứu thoát? Anh cảnh sát hỏi.</big></big></big>
<big><big><big>- Tôi được đưa vào một cái hang đá khá lớn, có sẵn một số thức ăn, nước uống và cả áo quần cùng nhiều vật dụng mà có lẽ bọn họ cướp được từ những lần trước.</big></big></big>
[/FONT]
[/FONT]

[FONT=Times New Roman, Times, serif][FONT=Times New Roman, Times, serif]<big><big><big>Đó là một đảo hoang. Một trong những “hậu trạm”. Cứ bốn, năm hôm, có khi cả tuần lễ, bọn hải tặc trở về đây nghỉ ngơi đôi ngày, chia chác “chiến lợi phẩm”, rồi lại ra đi. Tiếp tục những chuyến làm ăn khác, hoặc vào bờ lấy thêm nhiên liệu, lương thực. Tay thuyền trưởng cao lớn, tóc phủ tới lưng, cả ngày chỉ mặc một cái quần short ố vàng, phơi tấm thân trần đen đúa với đầy những hình xâm. Không biết vì nghĩ là cô không hiểu tiếng Thái hay là bản tính ít nói, cả ngày hắn lầm lì, chỉ thỉnh thoảng mỉm cười. Hắn luộc tôm cá tươi ép cô ăn và bắt cô uống rượu. Miệng hắn lúc nào cũng nồng nặc mùi rượu. Đôi mắt đỏ ngầu. Rượu giúp hắn trở thành con hổ đói cuồng bạo trên tấm thân liễu yếu của cô. Hắn lột hết áo quần cô, làm nhiều cách hầu tạo kích thích, nhưng cả thân xác và tâm hồn cô đã trở thành gỗ đá, lạnh lùng, không còn cảm giác. Chỉ biết nhắm mắt chịu đựng đau đớn, để cho hắn ta mặc tình hành hạ. </big></big></big>
<big><big><big>Bọn họ ra đi từ lúc trời chưa sáng. Khi cô thức dậy chung quanh vắng lặng, ngoài tiếng sóng biển rì rào. Cảm giác da thịt rã rời. Phải ngồi khá lâu mới đứng dậy được. Cô chui ra khỏi hang, trèo xuống hốc núi tìm đường ra biển. Hôm nay trời nắng, biển êm. Nhìn biển mênh mông, trong gió nghe như có tiếng gọi tên mình, cô giật mình nghĩ tới người yêu và những cô gái đồng hành bất hạnh. Cô xăn quần lội xuống, vốc một vốc nước rửa mặt. Nước biển làm rát khóe mắt, nhưng giúp cô tỉnh táo. Bỗng cô nghĩ đến cái chết. Chỉ cần lội ra xa để cho sóng cuốn đi là cô sẽ gặp lại người tình ở đâu đó dưới đáy đại dương và sóng biển có thể rửa bớt phần nào nhơ nhớp trên tấm thân, mà bao nhiêu lần, mẹ đã ôm cô dặn dò phải cố giữ gìn, trước lúc từ biệt ra đi. Chợt nhớ tới mẹ, nhớ các em, cô đứng bất động nghe lòng dạ bồi hồi.</big></big></big>
<big><big><big>Gió từ biển khơi thổi tới như muốn an ủi vỗ về, giúp cô tìm lại một chút yên ả. Cô bước lên đi dọc theo bờ biển. Tiếp tục nghĩ đến mẹ và hai đứa em nhỏ dại. Giờ này không biết họ ra sao. Có biết mình đang lưu lạc trên một hoang đảo xa lạ giữa trời biển mênh mông với tấm thân hoen ố ê chề. Hay là vẫn đang hy vọng đứa con gái, người chị của mình đã đến được một xứ thiên đường nào, để có thể cứu sống cả gia đình đang ở bước đường cùng. Bao nhiêu vốn liếng chắt chiu dành dụm được, kể cả chiếc nhẫn cưới và sợi dây chuyền vàng mà bà ngoại đã đeo lên cổ mẹ ngày vu quy, cũng chỉ đủ gom góp mua một cây vàng, và phải năn nỉ lắm mới được đóng trước một nửa cho chủ tàu, nửa còn lại khi nào đến nơi sẽ trả. Sau ngày cha cô vĩnh viễn không về, cùng nhiều đồng đội gởi xác thân ở một nơi vô danh nào đó, rồi cả miền Nam đang trù phú, hạnh phúc một thời, bỗng dưng trở nên đói nghèo, chia ly tan tác, cũng như những gia đình sĩ quan công chức khác, mẹ con cô đã trải qua bao tháng năm cùng cực. Cô đã phải bỏ học, phụ mẹ buôn tảo bán tần, mà cả nhà vẫn bữa đói bữa no. Nghĩ đến tương lai mịt mờ của mấy đứa con, mẹ bàn với cô, chỉ còn cách duy nhất, là cô phải ra đi. Bao lần tìm được mối, nhưng lo cho thân gái dặm trường, có biết bao điều bất trắc, cuối cùng bà rất vui mừng khi có người yêu của cô, cũng là con của một người bạn cùng khóa với chồng, cùng đi với con gái. Trước ngày đi, hai gia đình gặp nhau, tổ chức một lễ đính hôn rất vội vàng, đơn giản.</big></big></big>
[/FONT]
[/FONT]

[FONT=Times New Roman, Times, serif][FONT=Times New Roman, Times, serif]<big><big><big>Cô bước đi những bước vô hồn trên những bọt sóng xô bờ, hình dung tới tuổi ấu thơ và cả một thời cùng gia đình sống trong hạnh phúc. Nhớ mấy năm cha cô được đổi về làm huấn luyện viên trường Võ Bị Đà Lạt, nơi ông đã gặp mẹ cô, khi còn là một sinh viên sĩ quan trai trẻ, từng đứng trên đỉnh Lâm Viên với hào khí ngút trời. Nơi ông cùng bè bạn đồng môn, đã quỳ xuống vũ đình trường trong ngày mãn khóa, giữa không khí uy linh, đưa tay thề quyết bảo vệ núi sông. Cô cũng nhớ tới đám bạn bè một thời nhỏ dại. Không biết những cánh chim non hồn nhiên ngày ấy, giờ tản mác trôi dạt về đâu sau cơn bão lửa. Cũng như cô, tất cả đã mất rồi, cả một bầu trời xanh bao la với bao nhiêu ước vọng thuở nào. Không bao giờ còn tìm lại được!</big></big></big>
<big><big><big>Đầu óc mơ hồ, tưởng mình đang đi tìm dấu vết tuổi thơ bên bờ hồ Xuân Hương thơ mộng. Khi nghiêng mình để tìm ngôi nhà Thủy Tạ, nơi lần đầu hò hẹn người yêu, cô bỗng giật mình nhận ra tảng đá trên hoang đảo, nơi cô bị giam lỏng từ mấy hôm nay. Giấc mơ xưa ngắn ngủi vỡ tan như bọt biển. Ngồi bệt xuống cát, thẫn thờ gọi mẹ, gọi em, và gọi tên người tình. Cô gọi đến khan cả cổ, để chỉ nghe tiếng mình dội lại từ đại dương mênh mông xa thẳm, không tìm thấy chân trời. Cô đã bật khóc.</big></big></big>
<big><big><big>o O o </big></big></big>
<big><big><big>Tôi định đưa tay bảo cô ngừng kể, để tôi kịp dịch lại cho anh cảnh sát, đang hồi hộp ngồi chờ, nhưng chợt thấy cô cũng đang khóc. Anh cảnh sát đứng lên nháy mắt, làm dấu cho tôi cùng bước ra ngoài để cho cô được tự nhiên. Khi trở vào, anh cảnh sát nhờ tôi hỏi, nếu cô muốn bảo lãnh cho mẹ và các em còn ở Việt Nam, anh sẽ trình lên Sở Ngoại Kiều, lập hồ sơ cho cô được ưu tiên. Có thể trong vòng từ sáu đến tám tháng, cô sẽ được đoàn tụ với gia đình. Suy nghĩ một chập, cô lắc đầu:</big></big></big>
<big><big><big>- Em chưa chuẩn bị được tâm lý, không muốn mẹ và các em sẽ đau buồn vì những gì em đã trải qua, và nhất là cái thai trong bụng, em vẫn còn đang giấu mẹ. Chờ sinh đẻ xong, em mới bình tĩnh mà quyết định được. Mặc dù em rất nhớ mẹ và các em.</big></big></big>
<big><big><big>Ngần ngừ một lúc cô ngõ ý muốn được Phòng Xã Hội cho mượn một số tiền để gởi về giúp gia đình, sau này đi làm cô sẽ trả. Anh cảnh sát gật đầu, hứa sẽ nói việc này với Phòng Xã Hội. Anh bắt tay cô, chúc sớm bình phục, gặp nhiều may mắn, và hẹn sẽ trở lại thăm cô để xin hỏi thêm cô ít điều bổ túc hồ sơ.</big></big></big>
<big><big><big>Hai hôm sau, qua điện thoại từ Phòng Xã Hội, tôi đến nhận số tiền 10.000 kroner (khoảng 1.200 USD), để giao lại cho cô và yêu cầu cô ký tên vào biên nhận. Tôi cũng mang đến biếu cô mấy trái xoài chua, lần trước cô bảo là cô rất thèm. Gặp lại tôi, cô tỏ ra mừng rỡ. Lần đầu tiên tôi thấy cô nhoẻn miệng cười. Cô bảo cô rất buồn và thấy cô đơn, vì không có tôi cô chẳng biết nói chuyện cùng ai. Cô ngạc nhiên và thoáng một chút xúc động khi tôi đưa cho cô số tiền của Phòng Xã Hội, và bảo đó là tiền cô được cấp, chứ không phải mượn. Tôi giải thích thêm về những trợ cấp khác dành cho người tỵ nạn lúc ban đầu và hằng tháng sau này, cũng như trợ cấp việc sinh đẻ và nuôi con. Tôi bảo cô yên tâm, đừng bận tâm gì về chuyện tiền bạc. Cô càng vui và tỏ ra thân thiện hơn khi nghe tôi bảo trước đây tôi cũng là lính, sau gần 8 năm tù trở về, vợ con cũng khốn cùng như gia đình cô. Tôi kể chuyện gia đình tôi vượt biên nhưng may mắn được tàu Na-uy vớt, mới đến Na-uy tám tháng, nhưng mọi việc tạm thời ổn định. Cô nhớ tới cha cô, đôi mắt sáng lên và say sưa kể cho tôi nghe những ngày cô theo cha ra đơn vị, hoặc cùng mẹ vào trường Võ Bị tham dự các buổi lễ ra trường. Khi tôi đứng dậy cáo từ, cô viết tên và địa chỉ của mẹ cô, nhờ tôi gởi hết số tiền còn nguyên Những người may mắn đến được bến bờ tự do trong bì thơ về cho mẹ. Trong mắt cô sáng lên niềm vui.</big></big></big>
[/FONT]
[/FONT]

[FONT=Times New Roman, Times, serif][FONT=Times New Roman, Times, serif]<big><big><big>Một lần cô ngỏ ý muốn học tiếng Na-uy để giết thì giờ. Tôi bảo là ở Na-uy vừa mới có cuốn tự điển Nauy-Việt, tôi sẽ liên lạc Phòng Xã Hội để xin cho cô. Hai hôm sau, tôi mang cuốn tự điển đến, chỉ cho cô cách sử dụng, nói và viết vài câu đơn giản. Cô khá thông minh nên hiểu rất nhanh. Cô còn nhờ tôi viết cho cô vài câu tiếng Na-uy. Trong đó có một câu cô bảo là lời một bản nhạc nào đó mà cô rất thích: “Ngày mai, tôi muốn bỏ đi thật xa”. </big></big></big>
<big><big><big>o O o </big></big></big>
<big><big><big>Khi được biết là sẽ sinh con trai, cô vui lắm, nhưng ngay sau đó tôi thấy cô ngồi thẫn thờ, suy nghĩ mông lung. Gần tới ngày cô sinh, tôi xin phép cô cho bà xã tôi đến thăm, để hướng dẫn chỉ vẽ cho cô ít nhiều kinh nghiệm sinh đẻ mà vợ tôi đã trải qua. Hơn nữa, khi sinh đẻ, có một người đàn bà thân quen bên cạnh cũng an tâm. Biết cô ái ngại, nên tôi nói trước là vợ tôi hoàn toàn không biết gì về hoàn cảnh của cô, và tất nhiên tôi không hề tiết lộ điều gì. Tôi sẽ nói với vợ tôi là chồng cô còn ở trại tị nạn Thái Lan, sẽ được định cư sau. Ngần ngừ một lúc, cuối cùng cô gật đầu. Cuối tuần, vợ chồng tôi đến thăm. Vợ tôi mang đến cho cô một ít thức ăn Việt nam và mấy bộ áo quần con nít. Đàn bà dễ thông cảm với nhau, nhất là vợ tôi sinh mấy đứa con cũng không có mặt chồng, vì tôi bận tham dự hành quân, không về kịp. Tôi ra ngoài, để cho hai người đàn bà dễ nói chuyện sinh đẻ. Cô sinh vào ban đêm, lúc trời đã vào đông. Tuyết rơi kín cả khung trời. Vợ chồng tôi đến phòng sinh lúc cô đau bụng. Vợ tôi ở bên cạnh cô, còn tôi ngồi ngoài phòng đợi. May mắn là cô sinh rất nhanh. Khoảng hơn 30 phút, tôi đã nghe tiếng con nít khóc. Khi mọi việc đã xong, nghe tiếng vợ gọi, tôi bước vào chúc mừng cô. Thằng bé đang nằm trên ngực mẹ. Tôi thấy cô khóc. Không biết đó là những giọt nước mắt xót xa hay hạnh phúc.</big></big></big>
<big><big><big>Sau một tuần ở bệnh viện, mẹ con cô chuyển đến một khách sạn, được phòng xã hội mướn cho cô tạm trú một thời gian, vì chưa tìm được căn nhà thích hợp cho cô. Khách sạn khá sang trọng, nằm không xa bệnh viện, để tiện cho các y tá đến thăm và chăm sóc mẹ con cô.</big></big></big>
<big><big><big>Mấy ngày sau, tôi đến khách sạn cô ở. Không phải để thăm cô mà để làm thông dịch cho bác sĩ Hauff và nhân viên phòng xã hội. Họ mang đến cho con cô nhiều quà tặng. Ai cũng ngạc nhiên và thích thú khi thấy cô biết nói vài câu ngắn bằng tiếng Na-uy. Bác sĩ Hauff hỏi là cô có cần ông giúp điều gì nữa không, cô bập bẹ trả lời: “tôi sẽ nói với ông sau”. Tuy không đúng hẳn, nhưng mọi người đều hiểu được.</big></big></big>
<big><big><big>Ngày đầy tháng, vợ tôi nhớ và nhắc tôi đến thăm mẹ con cô. Chúng tôi ghé siêu thị chọn mua một món quà mừng thằng bé. Bấm chuông phòng, cửa không mở. Gõ nhẹ cũng không thấy lên tiếng. Tôi đến văn phòng khách sạn hỏi. Họ cho biết là cô vừa mới chuyển đi. Tôi gọi hỏi Phòng Xã Hội, họ cho biết là cô đã chuyển đi một thành phố rất xa, và theo yêu cầu của cô, họ không tiết lộ địa chỉ mới cho bất cứ một ai. Sau một thoáng ngạc nhiên, tôi chợt nhớ đến lời một bài ca nào đó mà cô đã nhờ tôi viết ra bằng tiếng Na-uy và chỉ cho cô đọc đi đọc lại nhiều lần: “ngày mai, tôi muốn bỏ đi thật xa”. Trên đường về, bà xã tôi thắc mắc tại sao cô lại chuyển đi sớm và không cho chúng tôi hay. Tôi lắc đầu, mặc dù tôi đã vừa mới hiểu ra.</big></big></big>
<big><big><big>Từ hôm ấy, tôi không bao giờ gặp lại cô. Vài lần nhớ tới cô, tôi định hỏi thăm qua một số người quen ở các thành phố khác, hoặc gọi cho Sở Tỵ Nạn. Nhưng rồi tôi quyết định không tìm, vì có lẽ cô không muốn gặp lại tôi, một người biết quá nhiều về cô.</big></big></big>
<big><big><big>o O o</big></big></big>
<big><big><big>Bích Kiều đến đúng giờ hẹn. Khi thấy chiếc taxi đỗ ngay</big></big></big>
<big><big><big>trước cổng nhà, vợ chồng tôi chạy ra đón. Tôi cũng nóng lòng muốn xem lại dung nhan của người con gái xinh đẹp nhưng găp phải điều bất hạnh của hai mươi lăm năm trước. Bây giờ chắc tuổi cũng đã 45, 46. Vợ chồng tôi ngạc nhiên khi thấy Bích Kiều vẫn còn trẻ đẹp. Cặp kiếng cận làm tăng nét tao nhã quí phái. Cô ôm chầm chúng tôi, rồi lấy kiếng xuống để chùi nước mắt.</big></big></big>
<big><big><big>- Không ngờ Kiều bây giờ còn đẹp hơn hồi xưa nhiều lắm. Sao đi có một mình ên còn ảnh thì giấu kỹ ở đâu rồi không cho trình diện?</big></big></big>
<big><big><big>Câu nói đùa của bã xã tôi làm cô bớt xúc động, nở nụ cười sau một thoáng thẹn thùng:</big></big></big>
<big><big><big>- Em vẫn còn độc thân mà! Hôm nay xuống đây nhờ anh chị làm mai đây.</big></big></big>
[/FONT]
[/FONT]

[FONT=Times New Roman, Times, serif][FONT=Times New Roman, Times, serif]<big><big><big>Chúng tôi đi quanh khu vườn sau nhà. Bà xã muốn khoe mấy cụm hồng vàng vừa mới nở hoa, trước khi dắt tay cô bước vào phòng khách. Tôi mang nước ra mời và ngồi nghe hai người đàn bà nói chuyện trang điểm, phấn son xong mới lên tiếng:</big></big></big>
<big><big><big>- Vậy là Kiều đang ở Trondheim. Tôi thấy địa chỉ trong tấm thiệp cưới. Ngày ấy, tự dưng Kiều biến mất, làm bọn tôi cứ nghĩ là nàng trích tiên đã ngao ngán cảnh trần gian mà bay lại về trời rồi chứ. Cô cười bẽn lẽn: </big></big></big>
<big><big><big>- Hôm nay đến cũng để xin lỗi anh chị đây. Ngày ấy lòng em còn đau xót lắm, nên muốn đi đến một nơi thật xa, không muốn gặp bất cứ người Việt nào và nhất là những ai đã biết về mình. Mặc dù em rất thương quí và mang ơn anh chị.</big></big></big>
<big><big><big>Tôi cười:</big></big></big>
<big><big><big>- Tôi biết, nên chỉ thương chứ có nỡ lòng nào mà trách. Chắc Kiều còn nhớ cái câu tiếng Na-uy “Ngày mai tôi muốn bỏ đi thật xa” mà Kiều nhờ tôi viết ra và chỉ cho Kiều đọc đi, đọc lại bao nhiêu lần. Khi ấy Kiều bảo rất thích câu ấy trong một bài hát mà Kiều hay hát? Nhờ đó mà tôi hiểu được, nên không có ý tìm Kiều.</big></big></big>
<big><big><big>o O o</big></big></big>
<big><big><big>Đúng là cô đã đi thật xa, một hòn đảo nhỏ nằm ngoài khơi thành phố Ålesund. Ở đó không có một người Việt nào sinh sống. Chính quyền và dân chúng rất tốt. Mẹ con cô được chăm sóc chu đáo. Một năm sau cô bảo lãnh mẹ và hai cậu em sang đoàn tụ. Gia đình sống trong hạnh phúc. Đứa bé lớn lên trong vòng tay yêu thương của mọi người. Cháu được đặt tên Trần huy Bách, và trong giấy khai sanh có cha là Trần Huy Trác. Tên người vị hôn phu của Kiều. Anh đã bị chính cha ruột của thằng bé giết chết thảm thương rồi vất xác xuống biển. Kiều giấu kín mẹ và các em điều đau thương này, nên đến lúc qua đời, mẹ cô vẫn tin đứa cháu ngoại duy nhất của mình là con của Trác. Bà mất đột ngột sau cơn bệnh tim, khi sang Na-uy được mười sáu năm.</big></big></big>
<big><big><big>Được chính phủ trợ cấp, cho học bổng, và nhờ mẹ giúp trông con cùng mọi việc trong nhà, nên Kiều và hai em được đi học. Cả ba chị em đều xong đại học. Hai cậu em đang là kỹ sư, còn cô làm y tá trong bệnh viện. Khi hai cậu em được nhận vào trường NTH, một đại học kỹ thuật bách khoa nổi tiếng tại thành phố Trondheim, miền trung Na-uy, cả nhà đã di chuyển về đây sau sáu năm ở Ålesund. Cháu Huy Bách, con của Kiều cũng vừa tốt nghiệp ở trường này mùa hè năm ngoái.</big></big></big>
<big><big><big>- Vợ chồng tôi mừng cho Kiều, cho sự thành công của mẹ con Kiều cùng hai cậu em, và cũng xin chia buồn về việc bà cụ đã ra đi. Tiếc là chúng tôi không có dịp được gặp bà.</big></big></big>
<big><big><big>Đang vui, bỗng Kiều xúc động:</big></big></big>
<big><big><big>- Tất cả đều nhờ mẹ em. Cả một đời thiệt thòi, chịu đựng vất vả với con cháu. Em vẫn ân hận là em đã phải nói dối với bà về chuyện của cháu Bách.</big></big></big>
<big><big><big>- Tôi nghĩ Kiều làm như thế là đúng. Ít nhất là không làm đau lòng thêm những người ruột thịt vốn đã chịu quá nhiều nhục nhằn, khốn khổ. Tôi tin là bác ra đi thanh thản, không có trách gì Kiều về sự việc ấy đâu. Tôi nói để an ủi.</big></big></big>
<big><big><big>Bà xã tôi nãy giờ không hiểu hết những gì chúng tôi trao đổi, hỏi Kiều:</big></big></big>
<big><big><big>- Sao cô lại không giữ tên Kiều mà lấy tên Bích. Tôi thấy tên Bích Kiều đẹp lắm. Ngày xưa gần nhà tôi ở Nha Trang cũng có tiệm uốn tóc Bích Kiều. Mấy cô con gái đều đẹp. Tôi quen cả hai chị em.</big></big></big>
<big><big><big>- Dạ, em thấy cuộc đời nàng Kiều của ông Nguyễn Du sao mà ba chìm bảy nổi quá, mà dường như cũng đã vận vào em, em sợ nên đổi tên Bích, cũng là chữ lót của em.</big></big></big>
[/FONT]
[/FONT]

[FONT=Times New Roman, Times, serif][FONT=Times New Roman, Times, serif]<big><big><big>Tôi cười phụ họa:</big></big></big>
<big><big><big>- Nàng Kiều nào cũng đã chết rồi. Bây giờ, đang ngồi trước mặt tôi là Bích. Một cô Bích hoàn toàn khác. Chúng tôi rất mừng được như vậy. Xin lỗi, đáng lẽ ra không nên gọi cô là Kiều nữa. từ bây giờ chúng tôi gọi tên Bích nghe.</big></big></big>
<big><big><big>- Có sao đâu anh. Hai đứa em của em cũng gọi em là chị Kiều mà. Ngoài gia đình, chỉ có anh chị là biết cái tên này của em. Chuyện xưa cũng đã qua rồi. Em muốn anh chị cứ gọi em là Kiều như ngày trước. Hơn nữa, em biết, ngày ấy anh chị cũng thương yêu cô Kiều đó lắm, phải vậy không?</big></big></big>
<big><big><big>Cả ba chúng tôi đều cười.</big></big></big>
<big><big><big>Kiều nhìn đồng hồ trên tường, khi nghe tiếng chuông báo giờ. Không biết vì không muốn nhắc lại chuyện cũ, hay là sợ không còn nhiều thời gian, cô bắt đầu một câu chuyện khác. Cô mở xách tay lấy ra mấy tấm ảnh đưa cho chúng tôi xem. Ảnh của Bách, con trai cô vừa chụp với cô vợ tương lai trong ngày lễ đính hôn hơn ba tháng trước. Một cô gái Việt nam. Cả hai cô cậu đều đẹp, mũi cao, đôi mắt to, vầng trán thoáng lên nét thông minh.</big></big></big>
<big><big><big>- Hai cháu rất xứng đôi vừa lứa! Vợ chồng tôi khen.</big></big></big>
<big><big><big>Cô cho biết cô dâu tương lai là một dược sĩ vừa mới tốt nghiệp, con gái út của vợ chồng một vị giáo sư trước 75, được con bảo lãnh sang Na-uy, và bây giờ lớn tuổi đã về hưu. Ông bà đang sống ở Oslo. Gia đình nề nếp, đạo đức, có năm người con, tất cả đều thành đạt. Cô nhờ vợ chồng tôi, tuổi tác ngang với cha mẹ cô dâu, đứng ra thay mặt nhà trai trong ngày đám cưới. Nhưng điều quan trọng hơn, theo cô, là để cho cháu Bách, và chính cô nữa, được tự tin, ấm áp hơn về phía gia đình mình. Bởi vợ tôi là người chứng kiến khi Bách ra đời, còn tôi là người đồng hương duy nhất biết rõ về Bách, về những tình huống để có Bách hiện diện trên thế gian này.</big></big></big>
<big><big><big>- Sự có mặt của anh chị trong ngày đám cưới cháu Bách, là một kỷ niệm thiêng liêng quý giá đối với mẹ con em. Bởi vì khi nhìn thấy anh chị, em sẽ có cảm giác như là đang có anh Trác bên cạnh. Xin lỗi anh chị, em cũng đã nói dối với cháu Bách, anh là người duy nhất ở Na-uy này biết chuyện Trác, và tội nghiệp, cháu Bách vẫn tin anh Trác là ba của nó. Em thường bắt gặp cháu đứng thật lâu trước tấm ảnh của anh Trác trên bàn thờ.</big></big></big>
<big><big><big>- Vậy nhỡ cháu Bách hỏi tôi về Trác, tôi biết nói gì với cháu?</big></big></big>
<big><big><big>Nghĩ ngợi một lúc, Kiều lên tiếng:</big></big></big>
<big><big><big>- Em chỉ nói với cháu Bách, là ngày xưa anh ở trong quân đội, nên biết ba của anh Trác là ông nội cháu, thế thôi. Chứ lúc ấy anh Trác còn nhỏ lắm. Em thiết tha mong anh chị giúp em. Vì trong lúc này, em cảm thấy thật lo sợ và cô đơn. Những hình ảnh hãi hùng ấy cứ tưởng đã quên được từ lâu rồi, vậy mà bây giờ nó lại hiện lên liên tục, ngay cả trong giấc ngủ của em. Thú thực, ban đầu em không có ý định gặp anh chị, nhưng càng gần ngày đám cưới cháu, em càng thấy lòng bất an. Cuối cùng bất ngờ em đã nghĩ đến anh chị, người đã biết tường tận hoàn cảnh của mẹ con em, bỗng dưng em thấy nhẹ nhàng, như vừa giải tỏa được những gì cứ phải chôn giấu, đè nặng mãi trong lòng.</big></big></big>
<big><big><big>Nhớ tới hai người em trai của cô, vợ tôi hỏi:</big></big></big>
<big><big><big>- Còn hai cậu em của cô bây giờ ra sao. Đã có gia đình riêng hay vẫn ở chung với cô?</big></big></big>
<big><big><big>- Cậu lớn sống chung với cô bạn gái người Na-uy hơn hai năm thì chia tay, còn cậu út vẫn chưa lập gia đình. Tuy nhiên, hai cậu đều ở riêng.</big></big></big>
<big><big><big>o O o</big></big></big>
<big><big><big>Cuối cùng, vợ chồng tôi quyết định hủy bỏ chuyến đi London. Phải gọi sang xin lỗi và giải thích cho vợ chồng cô con gái, bảo đây là một việc ba má cần làm để giúp cho những người bất hạnh có thể tìm lại ít nhiều hạnh phúc. Lễ thành hôn được tổ chức buổi sáng thứ Bảy. Chúng tôi đến khách sạn Royal Christiania khi trời vừa mới trải qua một cơn mưa hạ. Ánh nắng bắt đầu chói chang rọi qua những tàn cây tạo thành những vệt lung linh trên các bãi cỏ xanh điểm những chấm vàng rực rỡ của hoa løvetann đang mùa nở rộ. Họ nhà trai dùng khách sạn này, nơi mẹ con Kiều và hai cậu em đang ở mấy hôm nay, làm “điểm xuất phát”. Từ Trondheim xuống, nên họ chỉ có bốn người. Thêm một cậu người Na-uy ở Oslo, bạn học của Bách làm phụ rể. Vợ chồng tôi đến với hai cô con gái và ba đứa cháu, để bưng các mâm lễ vật, theo yêu cầu của Kiều.</big></big></big>
<big><big><big>Lần đầu tiên chúng tôi gặp Bách. Cậu bé ra đời vào một đêm đông tuyết giá, trong nỗi cô đơn và xót xa của mẹ, chỉ có vợ chồng tôi, hai người đồng hương xa lạ, có mặt và nghe tiếng khóc đầu đời, bây giờ là một thanh niên tuấn tú, có học, chân thật hiền lành. Điều làm chúng tôi ngạc nhiên là Bách nói tiếng Việt rất giỏi. Bất giác, tôi nhớ tới những điều Kiều kể với vị cảnh sát ngoại kiều trước kia trong bệnh viện. Đầu óc như mơ hồ có tiếng sóng biển thét gào phẫn nộ, và hình dung tới gã hải tặc Thái Lan có mái tóc phủ xuống lưng, trên người đầy những hình xâm với đôi mắt lúc nào cũng đỏ ngầu trong men rượu. Bỗng tôi giật mình với cảm giác như vừa làm điều phạm tội. Cố gắng hướng tâm trí tới những điều thánh thiện, tốt đẹp khác để xua đuổi hết những hình ảnh đen tối ấy vào giờ phút mọi người đang cần có niềm vui và hạnh phúc.</big></big></big>
<big><big><big>Lễ thành hôn đã diễn ra tốt đẹp. Ông bà sui của Kiều đều là nhà giáo, hiểu biết và tôn trọng nề nếp cũ. Mọi nghi thức hôn lễ theo tập tục do ông bà hướng dẫn khá tỉ mỉ. Con cháu đều thành đạt, lễ phép. Tôi mừng cho Kiều, và nhất là cho cháu Bách đã may mắn là con rể của gia đình này. Có lẽ thấu hiểu hoàn cảnh của Kiều với lòng mến mộ, sau khi lạy ông bà trên bàn thờ gia tộc, ông giáo hướng dẫn cô dâu chú rể đến dâng rượu và xin lạy mẹ của Bách hai lạy. Ông giải thích, một lạy cảm tạ công ơn sinh thành dưỡng dục của mẹ. Mất chồng từ khi còn rất trẻ, nhưng không bước thêm một bước nào nữa mà dành hết cuộc đời cho đứa con duy nhất của mình. Một lạy xin mẹ nhận thay cha, để hai con tưởng nhớ đến người cha bất hạnh, sớm lìa đời khi chưa thấy mặt con. Khi vợ chồng cháu Bách mời rượu, nói những lời cám ơn thật cảm động, Kiều âu yếm nhìn hai con, định nói điều gì, nhưng rồi nghẹn ngào, sau một lúc mới nở được nụ cười trong ràn rụa nước mắt. Tôi thấy lòng bâng khuâng. Thầm mong đó không phải là những giọt nước mắt xót xa mà là niềm vui của hạnh phúc. Không khí bỗng lắng xuống. Mọi người đều xúc động. Kiều ngước lên, đúng vào lúc tôi quay mặt đi để giấu những giọt nước mắt của chính mình.
</big></big></big>





















[/FONT]















[/FONT]



 
- Đây là 1 trường hợp điển hình của Cộng Nghiệp , gồm cả 3 thì quá khứ , hiện tại , tương lai . Thật đáng thương cho cô gái , nhưng dù sao cô vẫn còn tốt số hơn nhiều người khác .

- À ! Nãy TL nói còn thiếu : Âm - Dương song hành nên Thiện - Ác cũng song hành và Thiên Đàng - Địa Ngục cũng song hành .

Cả Hòa bình và Chiến tranh cũng thế . Do lòng tham , do sân si v. v ... của con người nên chiến tranh vẫn luôn xảy ra dưới nhiều hình thức

- Không riêng gì Quốc gia , xã hội , mà cả trong từng gia đình ... cũng có chiến tranh .
 
Last edited by a moderator:
Lão thanglong thấy, nói đến trồng thứ cây gì đó mà tui thích thì: chính tay tui làm; nói đến nuôi con gì mà tui thích thì: chính tay tui làm. Phải như vậy, bởi nếu không thì cái ý-định đó nó sẽ lẩn-quẩn trong đầu tui hoài. Tui tự tay làm để trực-tiếp được hạnh-phúc.

Điều đó có nghĩa là gì?

Là cách ứng-xử của những người tích-cực. Loại người nầy phải mang một cá-tính mạnh. Họ nhập cuộc hết mình. Khổ cũng hết mực. Được cái ngã rồì đứng lên cũng nhanh.

Nghiệt-ngã đã xô cô Kiều ngã vào Địa-Ngục. Vậy rồi cô "Bỏ đi thật xa". Cô im lặng, âm-thầm nuôi dạy giọt máu oan-nghiệt. Cha của giọt máu nầy là người đã giêt vị hôn-phu cô, đã vùi dập cô mang thai. Sanh con ra, cô dùng tên vị hôn-phu đặt cho đứa trẻ. Nuôi dạy thành tài. Gầy dựng hôn-nhân.

Cô "Tôi muốn bỏ đi thật xa", để được một mình nuốt xuống cái địa-ngục cô đã trải qua, để yên-ổn nuôi dạy đứa trẻ với "Tình thương nồng ấm". Tui không tìm thấy cô làm tất cả các điều trên 1 thời-gian dài, đủ để 1 người sinh ra và trưởng-thành mà cô nghĩ, cô tin rằng đó là cái Nghiệp. Cô làm với hết lòng, hết trí cô. Cô làm với hết trái tim yêu thương dành cho giọt máu oan-nghiệt của cô.

Một cách hết sức tích-cực.
 
Cũng mừng cho cô là sau khi đã trả Nghiệp , cô gặp được những điều thuận lợi . Chứng tỏ Nghiệp cô cũng nhẹ và có gieo Nhân tốt . Giờ lòng cô hoàn toàn thanh thản sau một chặng đường dài của cuộc đời . Nhắm mắt , xuôi tay cũng chẳng có gì nuối tiếc hay hối hận .

Đó cũng là sự khác biệt về cách nhìn của Đời và Đạo . Người Đời thì sợ nạn tai xảy đến , người hiểu Đạo thì không .

" Ơn đền - Nghiệp trả thảnh thơi cõi lòng
Mai này ... mây gió tang bồng ...
Chẳng hề vướng bận ... cõi hồng phù du "

Và Đạo Phật không "tiêu cực" như nhiều người lầm tưởng .
 
Hì hì, Lão thanglong!
Lão có biết là tui nhìn với cặp mắt Đời, ứng xử theo Đời thường không? Tui đón nhận hết mọi chuyện xãy đến với vòng tay Đời rồi đối-phó theo cái Tâm. Tức là sau khi nỗ-lực hết mình, trong ý-thức rằng tui đang chia sẻ cuộc sống với rất nhiều người chung quanh, rồi tui giao-phó cho Đấng mà tui tin và tôn-thờ. Tui "nỗ-lực" rồi mới "cậy trông". Cái hạnh-phúc của tui là lòng tui không bao giờ trống rỗng, nguội lạnh.

Lão nè! Có phải là trên Đời, đường Đạo không ít, nhiều lắm? Hãy nhìn:
- Một ngọn đèn tỏa sáng khắp phía, đến tận mọi nơi.
- Từ mọi nơi, nhìn ngược lại, các tia sáng đồng-quy tại tim đèn. Đồng-quy tại nguồn sáng. Và các tôn-giáo đều đồng-quy về Chân Thiện Mỹ. Đúng không nào?
Vậy:
- Tất cả mọi Đạo đều như 1 tia của nhiều tia sáng. Tất cả đều nhắm về một điểm. Cái điểm Chân-lý.

Kể Lão nghe 1 câu chuyện bên lề chơi:
Một người đến hỏi vị ẩn-tu rằng:
- Thưa thầy, động-tác nào phải thực-hiện trong việc tìm kiếm Chân-lý?
Vị ẩn-tu trả lời:
- Cầu-nguyện và chiêm-nghiệm.
Người đó hỏi:
- Nhưng thưa thầy, điều đó lại đưa đến sự bất động!
Ngài trả lời:
- Đúng là nó bất động.
- Thưa thầy, như vậy không lẻ hoạt-động lại kém bất động?
Ngài trả lời:
- Bất động nhưng không thụ-động. Trái lại nó chủ-động kín, múc nguồn sinh-lực cho các hoạt-động bên ngoài. Vì thế, nếu thiếu cầu-nguyện và chiêm-niệm, các hoạt-động sẽ trở nên vô-nghĩa.
 
Hì hì, Lão thanglong!
Lão có biết là tui nhìn với cặp mắt Đời, ứng xử theo Đời thường không? Tui đón nhận hết mọi chuyện xãy đến với vòng tay Đời rồi đối-phó theo cái Tâm. Tức là sau khi nỗ-lực hết mình, trong ý-thức rằng tui đang chia sẻ cuộc sống với rất nhiều người chung quanh, rồi tui giao-phó cho Đấng mà tui tin và tôn-thờ. Tui "nỗ-lực" rồi mới "cậy trông". Cái hạnh-phúc của tui là lòng tui không bao giờ trống rỗng, nguội lạnh.

Lão nè! Có phải là trên Đời, đường Đạo không ít, nhiều lắm? Hãy nhìn:
- Một ngọn đèn tỏa sáng khắp phía, đến tận mọi nơi.
- Từ mọi nơi, nhìn ngược lại, các tia sáng đồng-quy tại tim đèn. Đồng-quy tại nguồn sáng. Và các tôn-giáo đều đồng-quy về Chân Thiện Mỹ. Đúng không nào?
Vậy:
- Tất cả mọi Đạo đều như 1 tia của nhiều tia sáng. Tất cả đều nhắm về một điểm. Cái điểm Chân-lý.

@ Thanglong thì lại không nghĩ vậy . Những người như Lão Mục , Lão Tám , Lão Ma Đầu hay nói chung là những người từng trải thì bao giờ cũng nhìn đời và hành xử ... theo Đạo .

Do Lão phân tích xâu xa quá nên lại thành ra 2 thái cực giữa Đạo và Đời .

Đạo giữa Đời có thể nói nôm na là Từ Bi ( Phật ) Bác Ái ( Công Giáo ) hay Thiện Tâm ( Ở hiền gặp lành ) như ông bà mình hay nói ,có vậy thôi . Và những người từng trải đều thấu hiểu điều này . Nhất là 1 người lính chiến . Thường những người lính chiến ít khi nào bỏ rơi đồng đội , vì họ hiểu rất rõ sự mong manh giữa cái sống và cái chết . Hôm nay , mình giúp người thì ngày mai mới có người giúp mình .

Đạo ngoài Đời dành cho những người thoát ly thế tục , với mục đích là tự cứu mình thoát khỏi trầm luân bể khổ , thoát khỏi Luân Hồi ,để được về cõi trời ( Thiên Đàng ) hay cõi Phật . Diễn giải thì không hề đơn giản nên Tl tạm ngưng ở đây .

@
- "Các Tôn Giáo đều đồng quy về Chân Thiện Mỹ"
- "Tất cả mọi Đạo đều như một tia của nhiều tia sáng . Tất cả đều nhắm về một điểm . Cái điểm Chân Lý " .
Câu trước Lão Ma Đầu nói đúng . Câu sau thì lại viết nhầm rồi . Phải viết là các Tôn Giáo đều nhắm về một điểm

Đạo chính là chân lý . Trước đây , Tl đã có nói do người đời phân biệt Tôn Giáo thôi chứ người hiểu Đạo thì không sanh tâm phân biệt . Bởi vì đích đến đều như nhau . VD như Đạo Hồi ( quá khích ) không còn ở nghĩa Đạo mà là sự phân biệt Tôn Giáo
Ngay cả trong Đạo Phật cũng không ít người sanh tâm phân biệt giữa Tịnh Độ và Thiền Tông , giữa pháp môn này và pháp môn kia . Họ chẳng hiểu được rằng đi bằng con đường nào cũng được , Cái quan trọng là ... Anh Có Đi Tới Đích Hay Không ??? Thật đáng buồn !

@ Câu chuyện Lão kể ... đúng là nghe chơi hi hi ...

Ậy ! Đừng nghĩ TL gièm pha nhe ! Bảo là nghe chơi bởi vì ... "Đưa đến sự bất động" . Bất động ??? ... Chẳng dễ thế đâu !
 
Last edited by a moderator:
@
- "Các Tôn Giáo đều đồng quy về Chân Thiện Mỹ"
- "Tất cả mọi Đạo đều như một tia của nhiều tia sáng . Tất cả đều nhắm về một điểm . Cái điểm Chân Lý " .
Câu trước Lão Ma Đầu nói đúng . Câu sau thì lại viết nhầm rồi . Phải viết là các Tôn Giáo đều nhắm về một điểm

Link: http://agriviet.com/home/threads/44497-doi-Cho#ixzz22Gtsdgfu
Tại Lão đọc không kỹ. Mỗi Đạo như một tia sáng. Có nhiều Đạo, như có nhiều tia sáng. Và các tia sáng cùng đồng-quy.

Câu chuyện tui kể, mỗi người nghe mỗi khác. Tui nghe khác, Lão nghe khác, thêm người nữa cũng thêm một cái khác...
Tui là người của hoạt-động, và tui hành-động có chủ-tâm, có ý-thức. Đó là lý-do tui bất-động (nhìn thấy), nhưng nội-tâm tui lại đang làm việc.
Thử nhắm mắt lại để nhìn 2 người:
Một đạo-sĩ ngồi dưới cội tùng dựa triền núi. Bên trên đạo-sĩ là đỉnh cao chót-vót, nhìn xuống dưới là vực sâu muôn trượng. Đạo-sĩ ngồi bất-động. Bao lâu rồi? Không ai biết. Nhưng đạo-sĩ biết là ngày liễu-đạo gần kề. Đạo-sĩ được giải-thoát./

Người kia, đang ở giữa khoảng không bát-ngát của đồng cỏ. Một mặt bằng trước, sau trãi rộng. Ngồi trên mình ngựa, anh ta vừa mới cày xong mấy mẫu đất, giờ đang sửa soạn lùa đàn bò qua đồng cỏ kế bên. Xong, anh ta sẽ cho lúa vừa gặt vào vựa, để ngày mai bắt đầu lo vụ hái bông. Rồi thu-xếp đi phố để mua các vật-dụng cần-thiết cho chính mình. Công việc của anh ta là góp phần đem đến cho mọi người những nhu-cầu thiết-yếu về ăn, mặc hàng ngày và nhận lại các thứ mình cần. Làm xong, anh ta thấy thõa-mãn, một thứ giải-thoát thế-trần. Giải-thoát siêu-nhiên không hề bén mãng đến tâm-trí anh ta. Nhưng anh ta biết rất rõ sự liên-hệ hỗ-tương của đời sống.

Hai con người trên hoàn-toàn khác biệt, Lão há!
Thân.
 
@ Thanglong thì vẫn thấy ... có 1 Đạo thôi và chia ra thành nhiều Tôn Giáo . Nếu có ai đó nói Chúa Giê - Su là một hóa thân của Phật Di Lặc hay Đức Mẹ là một hóa thân của Bồ tát Quan Thế Âm thì Tl cũng chấp nhận . ( Bởi vì mục đích của các Ngài cũng như nhau )

@ Lão Ma Đầu nói không sai , hai người trên hoàn toàn khác biệt . Có điều ...

- " Đạo sĩ ngồi bất động ......... Đạo sĩ được giải thoát" . Lấy gì chứng minh là Đạo sĩ được giải thoát ? Ngồi bất động sẽ được giải thoát sao ? Giải thoát đến mức độ nào ? Câu chuyện về Đức Phật đã nói rõ về vấn đề này . Ngài ngồi tham thiền bất động và ... kiệt sức , gần chết khi chưa tìm ra chân lý .

- Người Nông Dân : " Làm xong anh ta thấy thỏa mãn , một thứ giải thoát thế trần " . Điều này thì Lão nói đúng . Nhưng có phải lúc nào anh ta cũng có cảm giác đó không ? Liệu khi thiên tai : Hạn hán , lũ lụt , mất mùa , dịch bệnh ... xảy đến , hoặc khi sản xuất ra rồi mà giá rớt thê thảm , không có người mua thì ... anh ta có còn cảm giác "Giải thoát" nữa không ?

@ Tất cả chỉ là Tương Đối có phải không Lão Ma Đầu .
Ủa ! Mà nói Tán Gẫu cho vui thôi nhe ! Chứ TL hổng rành về Đạo và càng không biết giảng Đạo đâu . hi hi
 
Hì hì, Lão,
Đừng lo gì cái nhà Tán gẫu. Đủ mọi thứ chuyện trên trời dưới đất, hầm bà lằng sắn cấu, à không, sấu cắn!

Câu chuyện người ẩn-tu tui kể Lão nghe, là câu chuyện của người Công-giáo, và là bài đọc mới Chúa-nhựt vừa rồi trong nhà thờ.

Người đạo-sĩ ngồi dưới cây tùng, dựa triền núi, trên cao, dưới sâu là biểu-hiện của chiều sâu phương Đông tụi mình; cái anh chàng nông-dân giữa cánh đồng bát-ngát, là cái bề rộng, nhưng cạn (!?), của phương Tây.

Dần dần rồi Đông và Tây cũng có cái gặp nhau.

Nhà thờ Úc ở ngay chỗ tui, mỗi tối thứ ba hàng tuần đều có buổi thiền, có lớp hướng-dẫn cho người mới tập.
Bọn tù Ngụy, nói riêng tù Công-giáo, trong lúc thân bị sanh-cầm, trừ khi bị giết chết, hoặc bệnh chết, họ giữ ý-chí tinh-thần bằng cầu-nguyện, chiêm-nghiệm, và giữ sức khỏe thể xác bằng thực-hành Dịch cân kinh và học theo các anh em Phật-giáo: Thiền.

Lão à, tui với Lão, chuyện đạo để cho giới tu-hành giảng, mình chỉ cần sống theo lẻ Công-bằng, nếu "đối-phương" không chịu công-bằng, thì mình sống theo lẻ Bác-ái. Ủa, tui đang nói đến Từ-bi, Hỉ-xả đó mà!

Tui với Lão không biết nhiều, nên có biết gì thêm để mà nói? Nhưng nói như vầy thì không sai:
- Nhân-loại mà không có Tôn-giáo (nói chung) thì sẽ biến trái đất thành địa-ngục!

Lão thử nghiệm xem tui nói vậy đúng không.
Thân.
 
@ "Cái bề rộng , nhưng cạn ( ?! ) của phương Tây" .

Đọc câu chuyện về cô gái mà Lão trích dẫn thì ngược lại . Những người phương Tây lại là những người sâu sắc ,biết nghĩ đến người khác . còn những người phương Đông... lại là những người nông cạn chỉ biết tới mình , biết hôm nay mà chẳng nghĩ đến ngày mai . he he ... chẳng phải vậy sao ?

* Đạo hay nói cách khác là Chân Lý , ví như là ánh sáng chiếu khắp mọi nơi . Chỉ có điều người Tâm mở rộng thì ánh sáng lọt vào và ngược lại .

@ Nói như Lão Ma Đầu vậy nếu không có Tôn Giáo thì không có Đạo sao ?

Hi ... Vậy theo Lão Ma Đầu VN theo Tôn giáo nào ? Trước khi các Tôn Giáo du nhập vào VN thì VN theo Tôn Giáo nào ? và lúc đó dân VN đang sống trong Địa ngục sao ?

Ậy ! Nhưng nhớ là đang Tán Gẫu đừng kí đầu TL nhe .

@ À ! Nói thêm với Lão một điều là bây giờ các Tôn Giáo ở VN đang ở thời kỳ Chấn hưng . Các chùa tổ chức giảng và thu vào băng đĩa phát không cho Phật tử . Đây là điều đáng mừng phải không Lão

Chỉ tiếc là ... bên cạnh những bài giảng thiết thực , hữu ích cũng có những bài giảng mà TL nghe thấy ... ngẩn ngơ . Hi chắc tại trình độ thấp kém của mình nên không Ngộ được
 
Last edited by a moderator:
Người Tây-phương sâu sắc hay không, thì tính sau. Nhưng nói người Tây sống theo kiểu hướng-ngoại, rất rộng bề mặt thì không sai. Họ cộng-sinh rất giỏi, nên văn-minh. Đông-phương nếu không theo Tây-phương thì còn co-cụm lâu lắm!

Trời đất ơi! Lão không thấy trước khi có Đạo Phật, Đạo Lão, Đạo Khổng, Đạo Chúa, Đạo... thì Việt-nam mình có Đạo Thờ Ông bà, Đạo Gia-tiên à!
Loài người từ ban-sơ, tự-nhiên là có Đạo. Họ thờ một "Đấng" nào đó. Mỗì nơi một Ông hay Bà. Tự-nhiên là vậy. Sau nầy người ta cố đạp đổ mấy "Đấng" đó, nên xã-hội suy-đồi. Lão đọc báo thì thấy. Đó là tôn-giáo chỉ mới bị dẹp... sơ-sơ! Nếu bị dẹp hẵn, địa-ngục thấy ngay nhãn-tiền!

- Bạn theo Tôn-giáo nào?
- Tui theo Đạo Bà-la-môn. (Ví-dụ vậy).
"Theo" thì phải "đi". Tôn-giáo dẫn mình đi. Vậy Đạo là con đường. Tất cả mọi con đường (Đạo) đều nhắm đến Chân Thiện Mỹ. Đây là "hình ảnh" của Niết-bàn, của Thiên-đàng. Nhưng nước Nga (trước đây) vô-thần, nên không có tôn-giáo, nên dân chúng sống trong địa-ngục, nên sụp tan-tành!
Lão thấy tui nói có lý hôn?
 
@ Lão nói đúng ý tui quá ! Chính xác là vậy . Trước khi các Tôn Giáo du nhập vào VN thì mình thờ Ông bà và Đạo ở lúc này được hiểu đơn giản là Thiện Tâm với những câu đại loại như " Ở hiền gặp lành" - "Uống nước nhớ nguồn" - "Có Đức mặc sức mà ăn" v. v ... . Ngoài ra chẳng có Tôn Giáo nào khác , nhưng mọi người vẫn sống yêu thương , hòa thuận với nhau . Tôn ti trật tự phân định rõ ràng : Kính trên , nhường dưới . Và cũng rất thoáng trong tư tưởng "Anh em bốn bể là nhà"

@ Chính Tôn Giáo mới là những con đường dẫn người ta đến Chân Thiện Mỹ . Còn Đạo ??? Đạo ... nằm ngoài ngôn từ . Chính vì lẽ ấy nên các Thiền sư trả lời học trò câu hỏi về Đạo hổng người nào giống người nào .

Nếu một ngày nào đó TL bái sư , người nào trả lời chắc nịch : Đạo là ... Thì TL sẽ chẳng chọn là Sư Phụ đâu hi hi
 
Vậy mình đố nhau chơi:
- Sau khi Lão đi tuốt lên Bắc-cực thăm mấy bộ-lạc Eskimo, Lão đi trở xuống. Lão chọn hướng nào? Đông, Tây hay Nam, Bắc?
 
Bài viết có nội dung tương tự
Back
Top