Đọc lúc rảnh

Em,
Chỗ của tui có cái không vui là không có tiệm sách Việt. Tui cũng như em, chỉ thích đọc sách giấy, mà giờ thì không có lựa chọn nào khác ngoài sách trên mạng. Từ ngày làm quen với sách trên mạng, mắt tui yếu dần thấy rõ, nhưng vì mê sách quá, nên phải chịu trận.
Thân.
 
Những Người Thầy:
Chuyện Thật Với Mong Ước Gặp Lại
Những Người Ơn Cũ


Hôm nay đọc bài “Thầy Tôi” trên Báo, làm cho tôi chạnh nhớ lại mình cũng có một vị Thầy không phải dạy ở nhà trường, vì tôi chưa bao giờ được cắp sách đến trường tại VN hồi tuổi ấu thơ.Tôi vốn sinh ra trong gia đình nghèo ở Quảng Trị, năm lên 8 tuổi tôi đã rời xa gia đình vào Huế ở giúp việc (gọi là ở đợ) cho gia đình ông Đỗ Trí, Trung úy Trưởng Ty An ninh ở Thành Nội Huế cho đến năm 1962.Trong nhà có một cậu Gia sư tên là Phú, đến ở trọ dạy kèm để chờ ngày thi Tú tài. Châu là cô bé 11 tuổi con gái đầu lòng của ông bà Trí, nhỏ thua tôi ba tuổi. Một bữa nọ, Châu không thuộc bài, tôi bồng đứa em nhỏ của Châu ngồi chơi trước thềm, tôi trả bài dùm cho Châu, cậu Phú nhìn ra thấy tôi và hỏi rằng “Hoa ơi, làm sao em thuộc bài?”- Thì em nghe Cậu giảng đêm hôm qua mà, thế là từ dạo ấy cậu Phú thương tình âm thầm đưa bài vở của Châu học cho tôi sao chép.Để đáp lại công ơn cậu Phú, tôi giặt áo dùm, đôi lúc thấy bữa ăn còn lại ít quá, tôi nhường lại phần ăn của mình cho cậu ấy. Ngày tháng trôi qua tôi không nhớ rõ là bao? Nhưng một ngày buồn lại đến!Cậu nói là cậu đi nhập ngũ, chúc Hoa dùng chút vốn liếng chữ nghĩa ấy mà tiến lên với đời nhé. Cậu còn dặn là hãy đọc truyện nhiều là em biết chữ thôi! Rất tiếc ngày ấy tôi không xin địa chỉ Cậu, và hỏi quê quán Cậu ở đâu? Cậu dáng người cao, da ngâm, hơi rỗ một tí. Cậu ơi, hiện giờ Cậu ở đâu? Có còn sống không? hay đã bỏ mình ngoài chiến trận như bao Anh hùng khác? Cậu là bậc Thầy rất vĩ đại của em, Cậu có biết không?Em mang theo hình bóng Cậu suốt cả cuộc đời mình. Khi Cậu đi rồi em cũng thôi ở nhà ông Trí, về quê học may. Năm 1966 quê em lại chiến tranh khói lửa. Ba em lúc ấy ở Tiểu Đoàn 22 Pháo Binh, nên gia đình em vào Tam Kỳ.Ở đó, em gặp được người Thầy thứ hai là Chị Lý Thị Bích Thuỷ, quán may em ở gần trường đánh máy chữ. Không có hàng may, em thường đứng trước trường nhìn vào mà ước mơ... mình cũng được như họ.Vài ngày như thế trôi qua, một hôm em đang mơ màng thì một bàn tay đặt nhẹ trên vai em, “Ê bồ, sao ngày nào cũng đứng nhìn vậy? Em mắc cở bỏ chạy, thì Chị Thuỷ níu lại hỏi cho rõ chuyện. Tủi thân, em oà khóc... Từ đó Thuỷ làm bạn, và trả tiền cho em đi học. Vài tháng sau em được Thuỷ xin cho đi làm Thơ Ký đánh máy cho Bộ Hải Quân Hoa Kỳ tại Chu Lai. Trước khi đi làm, Thuỷ dạy cho em, thuộc hết vần ABC và đếm từ One đến One hundred. Năm 1968, Chị Thuỷ và Huyền (tức là Hoa, tên em hồi đó) mất liên lạc! Năm 2000 Huyền có vào Chu Lai và tìm được Chị Toàn, Chị cho địa chỉ Thuỷ ở Fort Lauderdale. Về lại Mỹ, Huyền hết sức vất vả mà cũng không tìm được! Với tâm nguyện của Huyền, ước mong một phép lạ, cho Huyền gặp được hai người Thầy mà Huyền đã mang theo hình bóng từ 40-50 năm nay.Mỗi lần đi đâu đông người Việt, Huyền không quên hỏi tên của hai vị, nếu không gặp được hai vị trong những ngày còn lại cuối cuộc đời, Huyền vẫn mãi mang theo hình bóng hai vị Thầy khả ái đến kiếp hậu lai. Hiện tại, nếu còn thở Huyền vẫn còn hy vọng... Ngoài ra, nhắn tin: Em Đỗ Thị Minh Châu, bây giờ em và gia đình ở đâu? Chị không biết tên của Mẹ em, chỉ biết tên và cấp bậc của Ba em mà thôi! Châu rất đẹp, ông bà Trí cũng rất đẹp và rất phúc hậu, người di cư 1954, đọc được câu chuyện nầy Ai có biết tin, xin cho Huyền tin để được liên lạc.Tự truyện này cũng là lời nhắn tin rất tha thiết, mong được hồi âm.Trương Thị Thu Huyền ( tức Hoa) -- 724.667.2345 (cell)
 
Những Người Thầy:
Chuyện Thật Với Mong Ước Gặp Lại
Những Người Ơn Cũ
.............................................................................................................................
Châu rất đẹp, ông bà Trí cũng rất đẹp và rất phúc hậu, người di cư 1954, đọc được câu chuyện nầy Ai có biết tin, xin cho Huyền tin để được liên lạc.Tự truyện này cũng là lời nhắn tin rất tha thiết, mong được hồi âm.Trương Thị Thu Huyền ( tức Hoa) -- 724.667.2345 (cell)

Thà rằng đừng bao giờ gặp lại...những tình cảm và hình ảnh quá khứ sẽ còn đẹp mãi trong lòng..giống như ông gìa noel..trong trí tưởng tượng của bao nhiêu trẻ thơ...
Cuộc đời đẹp biết bao khi có những bà tiên trên thảm cỏ...những Bồ Tát..trong cuộc sống dù chỉ còn là trong quá khứ rất xa xưa

Năm xưa 1 công ty du lịch Nhật Bổn tổ chức 1 buổi du lịch cho những người đăng kí.. bất kì đó là nam hay nữ nhưng phải trên 70 tuổi
Cái đặc biệt của buổi du lịch này là người đăng kí sẽ được đi du lịch chung với người tình đầu tiên của họ...mà mối tình này đã tan vỡ...để lại trong lòng nhiều đau đớn..và qua bao thời gian đến nay vẫn còn nhớ nhung...nuối tiếc...
Điều kiện là hãy cho công ty du lịch địa chỉ cũ...hoặc các chi tiết về nơi ở..trường học của người tình đầu ấy...cũng với năm đã xảy ra...
Họ sẽ nhờ công ty thám tử tìm cho ra...rồi thương lượng...để tổ chức cho các cặp này 1 buổi du lịch dài ngày....
Rất đông người đăng kí...và các thám tử cũng nhiều thành công để tìm cho ra đúng người xưa...của khách hàng..
Họ gặp nhau ngay trên xe và Buổi du lịch bắt đầu khởi hành

Kết quả...nhiều người đòi về nửa chừng...1 số gồng lên đi cho hết chặng du lịch dài ngày với người yêu quí năm xưa....
Ai cũng quay quả yên lặng ra về Công ty du lịch níu khách lại đặt câu hỏi :
“Bác có muốn đi du lịch kiểu này lần nữa không?”
Không...nếu tôi biết thế này tôi chả đi đâu...người tôi yêu quí năm xưa đâu có như thế này : già nua...lụm khụm ,xấu xí cọc cằn
Buổi gặp mặt làm tôi ...vỡ mộng...thà tôi đừng gặp còn hay hơn
 
Last edited by a moderator:
Đọc lúc rảnh :

Thứ Hai, 26/11/2012 - 07:32

Một kẻ tham lam, đất nước trả giá đắt!(Dân trí) -

Sự cả tin cộng với tư duy nóng vội, dốc tiền, đổ của để mong biến một “lọ lem” phút chốc trở thành hoàng hậu là điều không thể, nhất là trong một thế giới cạnh tranh khốc liệt, đầy cạm bẫy như hiện nay thì việc thất bại là khó tránh khỏi…
>> Những dự án “hậu Vinashin” bị bỏ rơi

Tien-roi-xuong-bien-copy2-91bb3.jpg

(Minh họa: Vũ Toản)

Những con tàu khổng lồ hàng trăm ngàn tấn như một niềm kiêu hãnh của nền đóng tàu Việt Nam đang nằm chờ hoen gỉ. Các cái tên đầy kiêu hãnh một thời như Sea Eagle, Vinashin Atlantic, Green Sea, Lash Sông Gianh, New Energy, New Phoenix, Hoa Sen… đang trở thành những “bóng ma” dật dờ trên những bến cảng cả trong và ngoài nước.
Khối tài sản khổng lồ từ hàng trăm đến cả ngàn tỉ đồng không chỉ là đống sắt vụn đang tan dần vào biển mà mỗi ngày còn phải tiêu tốn không biết bao nhiêu tiền của để bảo trì, bảo dưỡng, trông coi và nợ lãi. Nghiêm trọng hơn là trong đó có một số tàu bị xiết nợ ở nước ngoài khiến hàng chục thủy thủ Việt Nam bơ vơ nơi đất khách.
Có thể nói, những mất mát do Tập đoàn Vinashin gây ra là vô cùng khủng khiếp và còn ám ảnh nền kinh tế Việt Nam lâu dài. Không chỉ mất hàng tỉ USD giữa lúc nền kinh tế khó khăn, những nợ nần còn làm suy giảm uy tín Việt Nam đối với thị trường tiền tệ thế giới.
Song, vụ Vinashin vừa cần có một cái nhìn nghiêm khắc nhưng lại phải rất bình tĩnh, không tách rời bối cảnh lịch sử của nó. Có vậy mới đảm bảo tính khoa học, khách quan và quan trọng hơn là rút ra nhữnng bài học từ sai lầm nghiêm trọng này để từ đó có phương án xử lý thích hợp nhất.
Trước hết, ý tưởng xây dựng Vinashin trở thành một tập đoàn hùng mạnh là một chủ trương hết sức đúng đắn của Đảng & Nhà nước. Trong xu thế hướng ra biển của thế giới hiện đại, một quốc gia có hơn 32.00 km bờ biển cùng hàng ngàn đảo lớn nhỏ mà ngành hàng hải yếu kém là điều hết sức vô lý. Nó vô lý không bởi chỉ trong lĩnh vực phát triển kinh tế mà sâu xa hơn, còn là vấn đề bảo vệ chủ quyền lãnh thổ. Những đoàn tàu vận tải, tàu đánh cá và cả tàu du lịch chính là những chủ nhân của biển khơi, khẳng định chủ quyền biên cương của đất nước.
Thế nhưng từ một ý tưởng tốt đến một việc làm tốt là một khoảng cách xa, rất xa. Cái khoảng cách giữa núi cao và vực thẳm ấy đôi khi chỉ vì sự nhầm lẫn trong bổ nhiệm một cán bộ chủ chốt.
Trong Tam Quốc diễn nghĩa, đã từng có một Gia cát Khổng Minh tài ba lỗi lạc nhưng chỉ vì tin tưởng một viên tướng khoác loác, ba hoa Mã Tốc mà mất cả Nhai Đình để từ đó, thay đổi cục diện của cuộc chiến.
Trong thời đại hiện nay, sự cả tin cộng với tư duy nóng vội, dốc tiền, đổ của để biến một cô “lọ lem” ngày một, ngày hai trở thành hoàng hậu là điều không thể, nhất là trong một thế giới cạnh tranh khốc liệt, đầy cạm bẫy như hiện nay thì việc thất bại là khó tránh khỏi.
Chúng ta từng chứng kiến có thời điểm Vinashin là tâm điểm mà mọi nhu cầu đều được tập trung đến mức tối đa, mọi yêu cầu đều được đáp ứng với khả năng cao nhất.
Đáng lý ra khi đó, chúng ta cần có cái nhìn bình tĩnh và khoa học, tức là trước khi muốn biến nàng lọ lem thành bà hoàng hậu thì nên và cần trang bị cho nàng một lưng vốn hành trang tối thiểu.
Tiếc thay, có lẽ do đã quá tin vào viên “Mã Tốc” Phạm Thanh Bình để rồi giờ đây phải gánh chịu hậu quả. Ông ta đã tự khoác cho mình một cái áo quá rộng, kê cho mình cái ghế quá cao so với tài năng và phẩm chất.
Điều đáng nói là giờ đây, ông ta chỉ chịu có 20 năm tù nhưng nhân dân và đất nước thì không biết phải trả cái giá này đến bao giờ.

Bùi Hoàng Tám


BLOG rất mong nhận được bình luận của các bạn xung quanh các đề tài mà chúng ta cùng quan tâm. Xin hãy bấm vào link GỬI BÌNH LUẬN phía dưới bài, viết ý kiến của mình, rồi nhấn phím ĐỒNG Ý. Sau đó, điền thông tin theo một trong hai cách mà hệ thống hướng dẫn. Mọi ý kiến của các bạn đều được chúng tôi đón đợi và quan tâm.
Cám ơn các bạn!


http://dantri.com.vn/blog/mot-ke-tham-lam-dat-nuoc-tra-gia-dat-666638.htm
 
Last edited by a moderator:
Thưa,
Cha mẹ tui ít học, nghèo. Ráng cho bầy con đi học tới đâu hay đến đó. Mà đám con là anh em tụi tui vừa đi học vừa phụ giúp cha mẹ, mà cũng vừa theo đủ thứ "Mode học trò". Anh em chúng tôi chỉ học được Mẹ ở lòng Nhân-ái, ở Cha ở lòng Trong sạch, ở tính Ngay thẳng, Tương-trợ, còn tất cả những thứ hay ho khác đều được "nhập" vào anh em chúng tôi qua Thầy Cô và ngoài Xã-hội.
Nhân ngày Thầy Cô, tui xin thắp nén hương lòng cúi lạy biết ơn hết chư-vị, ở Trường Học cũng như Trường Đời, đã rộng tay dạy bảo anh em chúng tôi.
Trung.

Đó là lý-do tại sao tui thấm câu chuyện Cô Hoa trên. Đó là tại sao tui thấm cái nếp suy-nghĩ của cô bé giúp việc trong phim Oshin. Ôi, những người đã đưa rộng tay ra, giúp mở-mang trí óc người khác.

Tui vừa xem bài nầy, mời quý bạn cùng xem:



Đại Hạ Giá

Thời buổi này còn cái gì không hạ giá nhỉ? Sách vở, quần áo, đồ điện tử v...v... hạ giá! Tôi cầm mảnh bằng đại học cạ cục mãi chưa tìm ra việc làm, cũng nhào ra vỉa hè bán sách đại hạ giá. Từ Victor Hugo, Leon Tolstoy, Tagore, Dostoievski... đến Khái Hưng, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng... cả thảy đều bị “hạ” nằm la liệt. Lắm lúc ngồi chồm hổm nhìn xuống các tên tuổi từng “vang bóng một thời”, tôi thầm hỏi:
- Nên cười hay nên khóc, thưa chư liệt vị?

Cách đây ít lâu, một ông lão hình dáng tiều tụy mang đến bán hai pho sách dày. Một cuốn là “Hán Việt Từ Điển” của Đào Duy Anh do Khai Trí tái bản. Cuốn kia là “Petit Larousse Illustré” in tại Paris năm 1973. Sách còn tinh tươm lắm, hẳn chủ nhân đã xài rất kỹ. Thấy giá rẻ, tôi mua. Loại ấn bản này đây, gặp loại khách biên biết, bán cũng được lời.


Ngoài bìa và một số trang ruột của mỗi cuốn, đều có ấn dấu son hình ellipse: “Bibliothèque - Đô Bi - Professeur”. À, té ra ông lão vốn từng là giáo chức. Thảo nào! Cất tiền vào ví rồi mà ông cứ dùng dằng nuối tiếc, ngoảnh lại nhìn những tài liệu - tài sản phải đứt ruột bán đi. Ngoái mãi mấy lần rồi ông mới dắt chiếc xe đạp cà tàng đạp về. Mắt ông đỏ hoe. Lòng tôi chợt se lại!

Chiều 25 Tết. Ngồi cạnh các danh tác tôi vẫn lim dim, thấp thỏm, chồm hổm ra đấy. Qua đường không ai thấy, lá vàng rơi trên giấy. Sài Gòn chả có mưa bụi cho đủ khổ thơ Vũ Đình Liên. Nhưng bụi đường thì tha hồ, đủ khổ thứ dân lê lết vệ đường như tôi.


- Anh mua bánh bò, bánh tiêu?


Một chị hàng rong đến mời. Tôi lắc đầu. Bỗng chị sững người chăm chú nhìn vào hai bộ từ điển. Chị ngồi thụp xuống, đặt sề bánh bên cạnh, cầm hết cuốn này đến cuốn kia lật lật. Rồi chị hỏi giá cả hai. Ngần ngừ lúc lâu, chị nói:


- Anh có bán... trả góp không?
- Trời đất ơi! Người ta bán trả góp đủ thứ, chứ sách vở, sách đại hạ giá ai đời bán trả góp? Vả lại, tôi nào biết chị là ai, ở đâu?
- Tôi cần mua cả hai - chị nói tiếp - xin anh giữ, đừng bán cho người khác. Khi nào góp đủ, tôi sẽ lấy trọn. Anh thông cảm làm ơn giúp tôi.


Thấy lạ, tôi hỏi chuyện mới vỡ lẽ. Đô Bi chính là thầy cũ của chị hàng rong. Chị Tám (tên chị) bất ngờ thấy có dấu son quen, hiểu ra hoàn cảnh của thầy, bèn nảy ý chuộc lại cho người mình từng thọ ơn giáo dục. Song, bán bánh bò bánh tiêu nào được bao nhiêu, lại còn nuôi con nhỏ, không đủ tiền mua một lần nên chị xin trả góp.


Tôi cảm động quá, trao ngay hai bộ từ điển cho chị Tám:


- Chị hãy cầm lấy, kịp làm quà Tết cho thầy. Tôi cũng xin lại đúng số vốn mà thôi, chị à.
- Nhưng...
- Đừng ngại, chị trả góp dần sau này cũng được.


Chị lấy làm mừng rỡ, cuống quít trả tôi một ít tiền.
- Chao ôi, quý hóa quá! Cảm ơn... cảm ơn... anh nhá!


Mai lại, chị Tám trả góp tiếp. Chị kể :
- Thầy Bi thảm lắm... Gần Tết, cô lại ngã bệnh... Thầy nhận sách, mừng mừng tủi tủi tội ghê, anh à!... Thầy cũ trò xưa khóc, khóc mãi!


Tôi vụt muốn nhảy cỡn lên và thét to:


Hỡi ông Victor, ông Lev, ông Dostoievski... ơi! Ông Khái, ông Vũ, ông Ngô... ơi! Có những thứ không bao giờ hạ giá được! Có những người bình thường, vô danh tiểu tốt nhưng có những kiệt tác không hạ giá nổi, đó là ‘Tấm lòng’”.
 
Last edited:
Đọc khi rảnh :

Chị bước vào quán, kín đáo nhìn quanh như tìm người quen... Rồi chị lấy xấp vé số giấu trong
giỏ ra, nhẫn nại rao ...
Chị nhỏ nhẹ mời, lặng lẽ rút khi khách lảng đi.

Tôi gục mặt trên bàn bia... muốn mua nhiều vé số của chị mà không ngẩng lên được…!
Chị là bạn vợ tôi, trước dạy cùng trường...
(Đức Nam)
 

Bài hay...


Câu chuyện Khoa Học về cha đẻ thuyết Tương-Đối.
TG chuyển ngữ.

Vị giáo sư triết học, là người vô thần, không tin có Thượng Đế, đứng trước lớp học của ông và nói:
- Để tôi nói cho các bạn biết là tôn giáo vốn có những điều không ổn đối với khoa học.

Ông liền chỉ một người trong đám sinh viên mới của ông và bảo anh ta đứng dậy:
- Này con, con là người theo đạo Tin Lành phải không?
- Thưa thầy, phải.
- Vậy thì con tin vào Đức Chúa Trời?
- Vâng, tuyệt đối như vậy.
- Vậy thì Đức Chúa Trời có tốt không?
- Chắn chắn rồi. Ngài rất tốt.
- Vậy thì Đức Chúa Trời toàn năng? Ngài làm được mọi sự không?
- Vâng, được mọi sự.
- Thế con là người thiện hay ác ?
- Kinh Thánh nói con là người ác.
Vị giáo sư hơi nhăn mặt:

- A ha! Kinh Thánh! Ông trầm ngâm một chút.
- Đây, ta hỏi con.. Ví dụ như có một người bệnh ở đây và con có thể chữa được cho ông ta. Con có khà năng làm việc đó. Vậy con có muốn giúp ông ta không? Con có muốn thử giúp không?
- Thưa thầy, con sẵn lòng.
- Như vậy con là thiện.
- Con không dám nói như vậy.
- Nhưng tại sao không nói được? Vì con sẵn lòng cứu một người bệnh hoạn tật nguyền. Đa số chúng ta đều sẵn lòng. Nhưng Đức Chúa Trời thì không.
Người sinh viên không trả lời. Do đó vị giáo sư tiếp tục :

- Đức Chúa Trời không giúp, có đúng không? Người em của ta là một Cơ đốc nhân chết vì bệnh ung thư, măc dù cậu ấy cầu nguyện Chúa Jesus chữa lành cho. Làm sao mà nói rằng Chúa Jesus tốt cho được? Con trả lời điều đó cho ta được không? Cậu sinh viên vẫn đứng im lặng.

- Con không trả lời được phải không? Vị giáo sư nói. Ông chậm rãi lấy ly nước trên bàn hớp một ngụm để cho cậu sinh viên thời gian thư giãn. Ông GS lại nói:


- Thôi bắt đầu lại cậu ơi. Này, Đức Chúa Trời có tốt không?

- Eh... Vâng, tốt, cậu sinh viên nói.

- Thế Satan có tốt không?

Cậu sinh viên không ngần ngại ở chỗ này:

- Không!
- Thế thì Satan từ đâu ra?

Cậu sinh viên yếu ớt:

- Từ Chúa mà ra.
- Đúng thế... Chúa tạo dựng ra Satan phải không? Hãy nói cho ta biết. Thế giới này có điều ác không?

- Thưa thầy, có.
- Điều ác ở khắp nơi, phải không? Và chính Chúa đã tạo dựng ra Mọi Sự, có đúng vậy không?

- Thưa đúng.
- Vậy thì ai tạo ra điều ác?

Vị giáo sư tiếp tục:

- Nếu Đức Chúa Trời tạo dựng ra mọi sự, vậy thì Chúa đã tạo ra điều ác, bởi vì điều ác hiện hữu, và theo nguyên tắc khoa học đã định nghĩa, thì Đức Chúa Trời là ác.

Thêm lần nữa, cậu sinh viên không có câu trả lời.
- Thế những bệnh tật, sự vô luân, thù hận, và những điều xấu xa, tất cả điều đó có thật không? Vị giáo sư nói.

- Vâng, đúng là có thật như thế. Cậu sinh viên cúi rùn trên hai chân của mình.
- Thế ai đã tạo ra chúng?
Cậu sinh viên lại không trả lời, nên vị giáo sư lập lại câu hỏi:
- Ai đã tạo ra chúng?
Lại vẫn không có câu trả lời. Thình lình, vị giáo sư bỏ đi đến trước lớp học, đi qua đi lại. Cả lớp như chết lặng trong ngột ngạt.
- Nói cho ta biết, ông tiếp tục trên một sinh viên khác. Con có tin vào Chúa Jésus Christ không? Cậu sinh viên này lạc giọng:

- Vâng, thưa giáo sư, con tin.

Ông ta dừng lại:
- Khoa học nói rằng bạn có năm giác quan. Chúng ta dùng chúng để nhận diện và quan sát thế giới chung quanh chúng ta. Vậy có bao giờ các cậu thấy Chúa Jésus Christ chưa?
- Thưa không, con chưa bao giờ găp Ngài.

- Vậy hãy nói cho chúng ta biết, con có nghe Chúa Jesus của con bao giờ không?
- Thưa không, con chưa bao giờ nghe.

- Thế, con có bao giờ cảm giác Chúa Jesus không, nếm được Jesus hay là ngửi được Chúa Jesus của con không? Thế con có bao giờ cảm ứng được về Chúa Jesus Christ hay là Đức Chúa Trời trong cùng ý nghĩa đó không?

- Không, thưa thầy, con e rằng con chưa cảm nhận như vậy bao giờ.
- Vậy mà cậu vẫn tin vào Ngài sao?
- Vâng.

- Theo nguyên tắc của kinh nghiệm, thử nghiệm và chứng minh khoa học, thì khoa học xác nhận rằng Đức Chúa Trời không hiện hữu. Vậy thì cậu biện minh thế nào về điều đó?

- Không có điều gì, thưa thầy. Con chỉ có Đức Tin.

- Vâng, đức tin. Vị giáo sư lập lại. Và chính đó là điều mà khoa học thấy là nan giải đối với đức tin về Đức Chúa Trời. Không có bằng chứng gì cả, mà chỉ có đức tin.

Cậu sinh viên đứng im lặng một lúc, trước khi đặt câu hỏi lần đầu tiên với vị giáo sư:

- Thưa thầy, có một điều gì gọi là “nhiệt”, là sức nóng chăng?
- Vâng.
- Và có điều gì gọi là “hàn”, là sức lạnh không?
- Có chứ, có sức lạnh chú!
- Thưa thầy, không có.Vị giáo sư quay nhìn cậu sinh viên, và cảm thấy hết sức tò mò muốn tìm hiều. Căn phòng bỗng dưng im lặng. Cậu sinh viên bắt đầu giải thích.
- Chúng ta có nhiều thứ nhiệt, đa nhiệt lượng, siêu nhiệt lượng, đại nhiệt lượng, tiểu nhiệt lượng,vô tận nhiệt lượng, vô nhiệt lượng, nhưng chúng ta không có thứ gì gọi là “hàn lượng”. Chúng ta có thể đưa hàn độ xuống 458 độ F dưới zero. Mỗi cơ thể hay vật thể chỉ nghiên cứu được khi truyền năng lượng, và nhiệt là thứ đã làm cho cơ thể hay vật thể có thể truyền năng lượng. Độ-không tuyệt đối (-458F) là sự hoàn toàn vắng mặt của cái gọi là Nhiệt. Như giáo sư thấy đó, Hàn, sức lạnh chỉ là chữ chúng ta dùng để nói lên sự thiếu vắng của Nhiệt mà thôi. Chúng ta không thể đo Hàn độ. Nhiệt độ có thể được đo bằng các đơn vị của hàn-thử biểu. Hàn thì không phải là đối nghịch với Nhiệt, thưa giáo sư, mà nó chỉ là sự vắng mặt của Nhiệt mà thôi. Sự im lặng phủ khắp căn phòng. Đâu đó, một tiếng rơi nhẹ của cây bút trở thành vang dội như tiếng búa.Còn sự tối tăm thì sao, thưa giáo sư? Có cái gì được gọi là sự tối tăm không?

- Vâng, có. Vị giáo sư trả lời không do dự. Đêm tối thì chúng ta phải gọi là gì nếu không phải là sự tối tăm?

- Thưa thầy, thầy lại sai nữa rồi. Sự tối tăm không phải là điều hay sự gì cả, mà nó chính là sự vắng mặt của điều gì đó. Chúng ta có ánh sáng thấp, ánh sánh bình thường, ánh sáng rực rỡ, ánh sáng chớp nhoáng, nhưng nếu liên tục mà chúng ta không có ánh sáng, thì chúng ta gọi đó là bóng tối, có phải không? Đó là cái nghĩa mà chúng ta dùng để định nghĩa cho cái từ đó. Trong thực tế, bóng tối không có hiện hữu. Nếu nó mà hiện hữu thì chúng ta đã làm cho bóng tối càng tối hơn, có phải vậy không?
Vị giáo sư bắt đầu mỉm cười với cậu sinh viên đang đứng trước mặt ông. Chắc khóa học này sẽ vô cùng hứng thú, ông tự nhủ:
- Thế thì cậu mày muốn chúng minh điểm gì đây?
- Vâng, thưa giáo sư. Tôi muốn chứng minh rằng nền tảng triết học của giáo sư từ khởi đầu đã có điểm khiếm khuyết. Do đó sự kết luận của giáo sư khi đặt trên nền tảng đó cũng không được vững chắc.
Không dấu được nỗi ngạc nhiên, vị giáo sư hỏi lại:
- Không vững chắc? Cậu mày có thể giải thích được không?

- Thầy lý luận dựa trên luật đối-tính. Thầy cho rằng có Sự Sống rồi thì là có Sự Chết. Một Đức Chúa Trời tốt và một Đức Chúa Trời xấu. Thầy xem quan niệm về Thượng Đế hay Đức Chúa Trời như là một điều hữu hạn có thể đo lường được. Thưa thầy, khoa học còn chưa giải nghĩa nổi một tư-tưởng!
Khoa học dùng điện lực và từ trường, nhưng có bao giờ thấy nó đâu, chứ đừng nói đến chuyện hiểu thấu được chúng một cách hoàn toàn. Nhìn xem Sự Chết như là đối nghịch với Sự Sống là chúng ta không hiểu biết đến sự kiện là tự trong bản chất Sự Chết không hề hiện hữu. Sự Chết không phải là điều gì đối nghịch với Sự Sống, mà chính là sự vắng mặt của Sự Sống. Bây giờ, thưa giáo sư, có phải thầy dạy sinh viên của thầy là: họ thoát thân từ dòng khỉ mà ra có phải không?

- Cậu mày nói đúng, nếu dựa vào tiến trình của thuyết tiến hóa. Vâng.

- Có bao giờ thầy thấy cái tiến hóa đó diễn ra trước mặt thầy chưa?
Vị giáo sư lắc đầu, vẫn tiếp tục mỉm cười. Và nhận ra rằng cuộc tranh luận thật mạnh mẽ, khóa dạy này sẽ mang lại cho ông nhiều thích thú.

Người sinh viên nói tiếp:
- Bởi vì không một ai đã từng quan sát tiến trình của sự tiến hóa thực sự diễn ra hay không, và cũng lại càng không chứng minh được cái tiến trình này là một điều gì đang cố gắng hình thành. Như vậy không phải là giáo sư chỉ đang dạy ý kiến của mình thôi sao? Và bây giờ, thầy không phải là một nhà khoa học, mà chỉ là người giảng giáo điều mà thôi!

Cả lớp bỗng bùng vỡ lên với những âm thanh nhốn nháo. Cậu sinh viên vẫn giữ im lặng cho đến khi cả lớp bình lặng lại.

- Bây giờ con muốn tiếp tục về quan điểm của thầy lúc nãy với người bạn kia. Để con cho thầy một thí dụ về điều con muốn nói.
Rồi cậu đảo mắt đi khắp căn phòng:
- Có bạn nào trong lớp, có bao giờ thấy được bộ óc của giáo sư chưa? Cả lớp vỡ ra với những tiếng cười.
- Có ai ở đây “nghe” được bộ óc của giáo sư đây chăng? Cậu lại tiếp. Hay là cảm giác được bộ óc của thầy chăng? Không ai có vẻ đã làm được chuyện đó. Vậy thì theo luật của kinh nghiệm, của thử nghiệm, của khoa học chứng minh, khoa học xác nhận rằng thầy không có bộ óc, xét theo nhiều phương diện, thưa thầy! Do vậy, nếu khoa học xác nhận rằng thầy không có bộ óc, làm sao chúng con có thể tin cậy được những điều thầy giảng thuyết nữa, thưa thầy?

Căn phòng bỗng im lặng. Vị giáo sư nhìn chăm vào cậu sinh viên, không đoán được ông đang nghĩ gì.

Cuối cùng, sau những giây phút gần như miên viễn, vị giáo sư già trả lời:
- Tôi đoán là các cậu phải thu nhận những lời đó bằng đức tin mà thôi.

Cậu sinh viên nói:
- Vậy bây giờ thầy chấp nhận rằng có cái gọi là đức-tin, và thực ra, đức-tin hiện hữu cùng với sự sống.
Cậu tiếp:
- Bây giờ, có cái gì gọi là điều ác chăng?

Không mấy tự tin, vị giáo sư trả lời:
- Dĩ nhiên là có. Chúng ta thấy nó mỗi ngày. Nó hiện diện trong những chuyện điển hình về sự vô nhân đạo giữa người và người. Những tội ác chồng chất, và bạo động xảy ra khắp nơi trên thế giới. Những thể hiện đó gọi là gì nếu không phải là điều ác?

Đến đây, người sinh viên trả lời:
- Thưa thầy, điều ác không có hiện hữu, hay ít nhất là nó không hiện hữu trong tự thân. Điều ác chỉ giản dị là Sự Vắng Bóng của Đức Chúa Trời. Là sự vắng mặt của Thượng Đế. Cũng giống như bóng tối, sự lạnh-lẽo, chỉ là cái từ mà người ta đặt ra để diễn tả sự vắng mặt của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời đã không tạo ra điều ác. Điều ác chỉ là hậu-quả xảy ra, khi con người không có tình yêu của Chúa trong trái tim họ. Nó giống như sự lạnh-lẽo chỉ đến khi không có sự hiện diện của sức nóng, và bóng tối chỉ đến khi nào không có ánh sáng.

Vị giáo sư ngồi xuống.

Câu chuyện chấm dứt.

***

Tái bút: Cậu sinh viên đó chính là Albert Einstein.
TG chuyển ngữ từ bản Anh ngữ không đề tên tác giả (nhận được từ e-mail). Xin bổ túc những thiếu sót, nhất là những danh từ khoa học khi tra cứu trong tự điển không thấy. Cảm ơn.

 
Ma đầu nói cái chuyện gì phức tạp..nhức đầu, chuyện dưới đây mới ác liệt nè.nhưng mà hổng biết nó là thiện hay ác

Cãi nhau
Bố mẹ cãi nhau:
Bố mua con chim sáo, nhốt trong lồng, treo ngoài vườn.
Mẹ mua con mèo, thả trong bếp.
Trưa, chẳng hiểu thế nào, khi bố về, con sáo không còn trong lồng, con mèo của mẹ đang phơi nắng ngoài sân. Bố đổ cho con mèo. Mẹ bảo không phải. Lại cãi nhau. Bố bỏ đến cơ quan. Mẹ về bà ngoại, mang theo nó đang thút thít khóc.
Chiều, người hàng xóm mang con sáo bay lạc sang trả, nhà chỉ còn bà vú già.

(Đặng Minh Hải)

Yêu
Ngày đó, yêu em mà không dám nói. Cứ chiều chiều tan lớp, ngồi đợi em về trong một góc quán cà phê đầu ngõ. Em thôi không học nữa.
Tôi quyết định viết thư tỏ tình. Thư viết chưa xong, em theo chồng xa xứ. Lá thư tình viết dở dang tôi còn giữ đến tận bây giờ.
Sáng qua, ngồi trên ghế xử ly hôn, ngỡ ngàng thấy em ôm con ngồi bên dưới, mắt đỏ hoe. Tối về, lục lại trang thư cũ định viết tiếp. Tìm mãi, không có cây bút nào trùng với màu mực cũ…
( Thu Vân)
 
Tui thích chuyện của ông Ẻn-Teng ở trên, mà cũng thích 2 chuyện của Lão nữa. Mà bộ Lão bận đi đá gà (móng đỏ) hay sao mà kể thiếu?
Thôi, để tui tiếp.
... (Cãi nhau)...
.... nhà chỉ còn bà vú già. Bèn hỏi:
- Bà ơi, bà nhặt giấy gì vậy?
- Cậu Mợ cãi nhau, xé sách quăng cùng nhà...
- Bà cho cháu xin 1 tờ coi!
Người hàng xóm cầm 1 tờ, đọc:
Nhà ông nầy cần sửa hàng rào, không cho anh hàng xóm sang nữa. Nhưng tìm hoài không thấy cái búa. Nghĩ:
- Chính là nó, mình sợ mất đồ, chưa làm được hàng rao, thì mất tiêu cái búa. Cái thằng sát vách chứ ai? Trông cái mặt nó gian thế nào ấy!
Mấy hôm sau, nhà nầy sửa lại chuồng bò, lại tìm được cái búa nằm trong đống rơm. Vui lắm! Sẵn con bò cái vừa đẻ chú nghé, bèn làm 1 con vịt tiết canh, mời anh hàng xóm. Nghĩ:
- Cái thằng tuy xí trai chút, nhưng nhìn kỹ, nó dễ thương, ngay thẳng...
*
... (
Yêu)...
... Tìm mãi, không có cây bút nào trùng với màu mực cũ... Nghĩ:
- May mà mình vì chuyện cây viết không trùng màu, nên không viết tiếp bức thư tình năm xưa. Mà tình mình còn không? Còn! Viết ngay bức thư mới, với hoàn-cảnh mới!
 
SINH NHẬT ĐẦU TIÊN VÀ CUỐI CÙNG

Chưa đến ngày sinh nhật, còn đến khoảng cả tháng, vợ đã lo nghĩ đến sinh nhật của chồng, con. Rồi chồng lo sinh nhật của vợ con, và con lo ngày mừng tuổi cho ba mẹ.

Duy chỉ một người, không ai lo đến - ông nội già yếu. Và cho đến một ngày - ngày ông nội mất.
Chồng hỏi vợ: Sinh nhật ông ngày nào?
Vợ hỏi lại chồng: Ngày nào là ngày sinh của ông?
Con cái hỏi cha mẹ: Ông sinh ngày tháng nào?

Vậy là cả con, dâu, cháu, chắt phải đi tìm ngày sinh cha ông trong chứng minh nhân dân đề làm bia mộ cho ông.
Đó là ngày sinh nhật đầu tiên và cuối cùng của ông.
Diệu An
 
Mấy người Úc hỏi tui:
- Sao không bao giờ thấy mầy mừng ngày sinh của mầy hết vậy?
- Tao không có sinh-nhựt.
- Ê! Tụi tao hỏi thiệt nghe mậy!
- Thì tao cũng nói thiệt với tụi bây. Bây nói tao nghe coi: Một thằng sinh ra dưới một ngôi sao xấu như tao thì có ngày sinh-nhựt để mà ăn mừng không?

Cả bọn xếp ve!
 
Last edited:
Tro Ấm :
Bọn cháu gái chúng tôi chẳng ai học được cách nhóm bếp của bà nội cả. Bà chỉ cần gạt bỏ lớp tro phủ trên mặt bếp lò, bỏ củi vào thổi nhẹ là có một bếp lửa đỏ rực.

Sáng nào cũng vậy, bà nội dậy thật sớm. Bà lặng lẽ nấu nước, lấy bộ đồ ông nội trên mắc áo đi giặt. Xong bà quay vào chuẩn bị bữa cơm, châm sẳn một bình trà nóng, rồi ra cửa gọi lớn:
"Ông ơi vào ăn cơm"
Cả nhà tôi luôn im lặng.
Ông nội đã mất 20 năm rồi!
Kim Liêu

Tro Ấm :
Bọn cháu gái chúng tôi chẳng ai học được cách nhóm bếp của bà nội cả. Bà chỉ cần gạt bỏ lớp tro phủ trên mặt bếp lò, bỏ củi vào thổi nhẹ là có một bếp lửa đỏ rực.

Sáng nào cũng vậy, bà nội dậy thật sớm. Bà lặng lẽ nấu nước, lấy bộ đồ ông nội trên mắc áo đi giặt. Xong bà quay vào chuẩn bị bữa cơm, châm sẳn một bình trà nóng, rồi ra cửa gọi lớn:
"Ông ơi vào ăn cơm"
Cả nhà tôi luôn im lặng.
Ông nội đã mất 20 năm rồi!
Kim Liêu

--------

Đạo đức con người..đạo đức ngề ngiệp suy đồi quá :

Một luật sư bị tố xâm hại thân chủ 14 tuổiThứ năm, 06/12/2012 23:53
Khi đến văn phòng luật sư để nhờ tư vấn, nữ sinh đã bị chính người này ép xem phim người lớn và xâm hại.

Công an thị xã Ngã Bảy (Hậu Giang) đang tạm giữ ông Phạm Hữu Hoàng, người vừa có chứng chỉ hành nghề luật sư, đang làm việc tại Văn phòng luật sư TH ở thị xã Ngã Bảy, Hậu Giang, để điều tra vì ông có hành vi xâm hại thân chủ.

Theo bà ngoại của nữ sinh N. (SN 1999, ở phường Hiệp Thành, thị xã Ngã Bảy), cháu bà bị một người ngụ cùng địa phương hai lần xâm hại nên gia đình đã tố giác sự việc đến Công an phường Hiệp Thành.

Đến ngày 20/11, bà cùng cháu N. đã tìm đến văn phòng luật sư TH ở thị xã Ngã Bảy và được ông Hoàng tư vấn, cách làm đơn.
Ngay buổi chiều hôm đó, N. đến gặp ông Hoàng theo lời đề nghị của ông này. Tại đây, ông Hoàng đã có hành vi xâm hại cháu N.

Bà ngoại cháu N. còn nói, vị luật sư này còn nhiều lần gọi điện thoại cho bà yêu cầu đưa N. lên gặp nhưng gia đình không đồng ý.
175914_1.jpg
Nạn nhân đang nói về vụ việc
Nữ sinh N. cho biết, 'Sau đó ông luật sư đã gọi điện thoại cho cháu, rủ cháu đi uống cà phê ở một quán nước.
Khi cháu và ông ấy vào trong một 'tum' (chòi lá) của quán cà phê, ông ấy bảo cháu cởi đồ cho ông chụp hình và sờ soạng… thì các chú công an vào bắt ông ta'.

Luật sư Nguyễn Thành Vĩnh Thy, Phó Chủ nhiệm Đoàn Luật sư tỉnh Hậu Giang, cho biết ông Hoàng là thư ký tại văn phòng luật sư ở Ngã Bảy, vừa được cấp chứng chỉ hành nghề luật sư vào tháng 10/2012.
Ông này vừa gửi hồ sơ xin gia nhập Đoàn Luật sư tỉnh Hậu Giang.

Chiều 5/12, bà Huỳnh Thúy Trinh, Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Hậu Giang, cho biết:

'Hội đã kiến nghị cơ quan chức năng nhanh chóng điều tra và có kết luận để đưa ra xử lý nghiêm khắc người xâm hại trẻ em'.

Cũng theo bà Trinh, sự việc cháu N. bị xâm hại đang được công an làm rõ.

Chiều cùng ngày, ông Trịnh Quang Hưng, Bí thư Thị ủy Ngã Bảy, cho biết vừa được công an báo cáo vụ việc. Thị ủy sẽ chỉ đạo công an khẩn trương điều tra, xử lý nghiêm người có hành vi phạm tội.

> Một học sinh 7 tuổi bị xâm hại rồi giết
> Bắt bác sĩ bị nghi xâm hại bé gái 3 tuổi

 
Last edited by a moderator:
Bắt thì bắt ngay. Tạm giữ, sau đó nếu đúng, tống giam.
Hội Phụ-nữ xun-xoe cái gì? Chạy 1 vòng lên Thị-Ủy mà làm chi?
Mệt quá!
 
Bắt thì bắt ngay. Tạm giữ, sau đó nếu đúng, tống giam.
Hội Phụ-nữ xun-xoe cái gì? Chạy 1 vòng lên Thị-Ủy mà làm chi?
Mệt quá!


Ở đây có đoàn thể phụ nữ tham dự vào ngĩa là cố tình làm lớn chuyện..không cho chạy tội

Điều đáng nói là..các thân phận lớn : luật sư ...bác sỹ..hiệu trưởng..và ngay cả thường dân cũng biết rõ là án phạt cho tội phạm tình dục kiểu này rất nặng ( trên 10 năm tù) sau dó là thân tàn ma dại
Mà sao các ông lớn vẫn phạm ? tự cho rằng mình có thế lực..có tiền..sẽ thoát tội?
Nhưng dù vì cái gì đi nữa thì nguyên nhân chính của các tội này không phải là do nhu cầu tình dục cao làm mất lí trí .. mà chính là do nhân phẩm các ông này...không có
Nhân phẩm của các ông lớn không có...thì dĩ nhiên các ông cũng coi nhân phẩm người khác...không có..
Các ông và nạn nhân ..đều được các ông đánh đồng như 1 con ...thú !

1 nhà tội phạm học lí luận vấn đề : Khi nào người ta phạm tội
Khi mà các áp lực của sống..khi mà các mối đe dọa...khi mà lòng tham..v..v
Đã lên quá sức chịu đựng...thì đó là lúc gười ta dễ đánh mất nhân cách
Khi nhân cách mất là lúc người ta phạm tội

Điều đáng nói là..các ông lớn này được đào tạo nhiều năm về chuyên môn...nhưng lại không được đào tạo về nhân cách...
Thì cũng có ngĩa là đào tạo ra các nhà chuyên môn không có nhân cách và sẵn sàng phạm tội khi có...cơ hội

Ông luật Sư học luật để lách luật...ông sẽ thoát!?
Ông Bác sỹ nhiều tiền...sẽ thoát tội!?
Ông hiệu trưởng....nhiều thế lực...sẽ thoát tội ?
 
Last edited by a moderator:
Cám ơn Lão Mục.
Như vậy, "để lấy lại công-bằng" nhiêu-khê quá! Mà chưa chắc đã được. Bác làm tui nhớ đến "Sầm Hiệu-trưởng".
 
Thử nge nhà ngoại cảm Phan T Bích Hằng nói chuyện 1 lần :

[video=youtube_share;jLrOB2wAaxo]http://youtu.be/jLrOB2wAaxo[/video]
 
[SIZE=+0] [FONT=times new roman, new york, times, serif]NGHIỆP Luật [/FONT][/SIZE]
Chỉ có chúng ta là những cứu tinh của chính mình
[SIZE=+0]( Chết trong an-bình – Tỳ Kheo Visuddhacara )

Ðôi-khi là một nhà sư tôi được yêu-cầu đến tụng kinh cho tang lễ. Tôi cảm thấy buồn cho gia-quyến của người chết , nhưng tôi cảm-thấy không giúp được gì vì có quá nhiều khó xử trong vai-trò của một nhà sư đi tụng kinh đám tang.

Một ngày nọ, một phụ-nữ trẻ tuổi đến gặp tôi. Cha cô mới chết sáng hôm đó. Ông mới chỉ 42 tuổi. Cô nói với tôi :
[/SIZE]

- “Xin mời thầy đến tụng kinh. Xin thầy mở con đường cho cha tôi”

Tôi nhìn cô ta với tất cả tấm lòng từ-bi mà tôi có thể tập-trung. Tôi có-thể cảm-thấy sự bối-rối và đau-khổ của cô. Cô khoảng chừng 20 tuổi và là một người con gái có hiếu. Trong thâm tâm tôi nói thầm với mình :
- “Trời ơi ! tôi sẽ mở đường cho Người như thế-nào đây ? Con đường tưởng-tượng nào tôi sẽ vẽ trong không-khí cho hồn tưởng-tượng đặt chân lên ? Làm sao tôi có-thể nói với người phụ-nữ trẻ tuổi tội-nghiệp đang ở trong tình-trạng buồn-phiền và bối-rối rằng : ”Không hề có con đường nào như cô có-lẽ đã tưởng-tượng như thế !?”

Ðức Phật cũng có lần ở trong tình-thế như vậy và Ngài đã trả-lời ra sao?
<var id="yiv1772565882yui-ie-cursor"></var>
Một hôm một người trẻ tuổi lại gần Ðức Phật và hỏi Ngài :

- “Bạch Thế Tôn, cha con vừa chết. Xin mời Ðức Phật đến và cầu-nguyện cho cha con , cứu độ linh-hồn ông ấy để ông ấy có thể đi lên thiên-đàng . Những người Bà La Môn cũng cử hành những nghi-thức này nhưng Ðức Phật lại còn mạnh hơn họ nhiều . Nếu Ngài làm điều đó , chắc-chắn hồn cha con sẽ bay thẳng về thiên-đàng”.

Ðức Phật trả-lời ,

- “Rất tốt, hãy đi ra chợ và đem về cho ta hai cái bình đất và một ít bơ”

Người trẻ tuổi sung-sướng vì Ðức Phật đã hạ cố thi-hành một số thần-thông để cứu linh-hồn cha của mình. Anh ta vội-vã đi ra phố và mua các thứ mà Ðức Phật bảo. Ðức Phật chỉ-dẫn cho anh ta để bơ vào một bình và để đá vào bình kia. Rồi ném cả hai bình đó xuống ao. Người trẻ tuổi làm theo và cả hai bình đều chìm xuống đáy ao.

Rồi Ðức Phật tiếp tục:
- “Bây giờ hãy lấy một cái gậy và đập vỡ hai bình đó ở dưới ao”. Người trẻ tuổi làm theo. Hai cái bình bị đập vỡ và bơ thì nhẹ đã nổi lên còn hòn đá vì nặng nên vẫn ở dưới đáy ao.

Rồi Ðức Phật nói :

- “Bây giờ nhanh lên đi tập-họp tất-cả những thầy tu. Hãy nói với họ đến và tụng kinh để bơ chìm xuống và viên đá nổi lên.”

Người trẻ tuổi nhìn Ðức Phật, sửng-sốt nói,
- “Bạch Ðức Thế Tôn, Ngài có nói thật không ạ. Chắc-chắn Ngài không thể trông chờ bơ nhẹ mà chìm và đá nặng mà nổi. Ðiều đó ngược lại với quy-luật tự-nhiên.”

Ðức Phật mỉm cười và nói :

- “Này con, con đã thấy nếu cha con có một cuộc đời LƯƠNG-THIỆN thì những HÀNH-VI của ông cũng nhẹ như bơ cho dù thế-nào thì ông cũng lên thiên-đàng. Không ai có thể cản được, ngay cả đến ta. Không ai có thể chống lại NGHIỆP luật tự-nhiên.
Nhưng nếu cha ngươi có một cuộc đời BẤT-THIỆN thì cũng giống như hòn đá nặng, cha ngươi sẽ bị chìm vào địa-ngục. Dù tụng kinh nhiều đến đâu đi nữa bởi tất-cả các thầy tu trên thế-giới này cũng không thể thay-đổi thành khác được.”

Người trẻ tuổi hiểu rõ. Anh thay-đổi quan-niệm sai-lầm của mình và ngừng đi loanh-quanh đòi-hỏi cái không thể được.
<var id="yiv1772565882yui-ie-cursor"></var>
Nụ cười của Ðức Phật đã đi tới điểm:

Không ai có-thể cứu chúng ta, sau khi chúng ta chết.
Theo NGHIỆP luật, chúng ta là sở hữu chủ của những hành-vi của chúng ta, chúng ta là người thừa hưởng những hành-vi của chúng ta. Những hành-vi của chúng ta thực-sự là tài-sản của chúng ta. Chúng là chỗ nương-tựa thực-sự của chúng ta, là những thân-nhân thực-sự của chúng ta. Chúng là trung-tâm từ đó chúng ta xuất-phát.

Khi chúng ta chết, chúng ta không mang được dù chỉ có một xu với chúng ta, hay bất cứ thứ đồ gì của cá-nhân chúng ta. Cũng chẳng có-thể mang được một trong những người thân-yêu nhất để cùng đi với chúng ta. Giống như chúng ta đến một mình theo NGHIỆP của chúng ta thì chúng ta cũng phải ra đi một mình theo NGHIỆP của chúng ta ...

Nếu chúng ta hiểu rõ NGHIỆP luật , thì chúng ta sẽ cảm-niệm thấy rằng sống một cuộc-đời LƯƠNG-THIỆN quan-trọng đến như thế-nào trong khi chúng ta còn sống , đừng đợi đến lúc chết thì sẽ quá muộn !

Hãy SỐNG lương-thiện để CHẾT trong an-bình !


<tbody>
</tbody>






















































 
Cám ơn bác NguSa, thật là tuyệt-vời! Chỉ một ẩn-dụ ngắn, mà giúp chúng ta hiểu được "nghiệp".
Dụ-ngôn trên của Đức Phật, sau nầy chúng ta lại có dịp thấy rõ thêm qua chuyện Mục-Liên Thanh-Đề.
Nhưng tui nghĩ, có thể tui chưa hiểu thêm điều gì khác nữa, nên có thể sai, là:
- Hậu-thế chúng ta vẫn còn rất nhiều người vờ đi, không nhớ đến lời dạy trên của Đức Phật, vẫn lo cho người chết đủ thứ: tụng-niệm, giải-oan... như vậy thì có ích gì?
- Thậm-chí, còn gởi thêm "tiền bạc, đồ dùng" xuống cho người chết nữa!

Tui hiểu ẩn-dụ trên của Đức Phật, nên lúc nào có thể, cũng cố gắng thanh-lọc tâm-hồn. Vậy mà có được đâu! Tui vẫn phạm lỗi. Có lỗi lập đi lập lại. Chính cái lập đi lập lại nầy tạo thành "cái nét riêng" của cá-nhân nhỏ bé của tui. Và mỗi người mỗi vẻ là ở cái nét riêng nầy. Bác đồng ý hôn?

Nhưng hơn hết, vẫn là, dù theo tôn-giáo nào, vẫn là, chúng ta phải đối-diện với "sự phán-xét của chính ta, vào giờ sau hết". Không ai can-thiệp vào được.
Lần nữa, cám ơn bác NguSa.
Thân.

--------

"Thầy tu bắt trộm"






Những ngày giáp Tểt trời dịu lạnh, mưa lâm râm, cây mai trước chùa nở lác đác mấy bông vàng, cánh hoa mỏng manh, khẽ run run trước gió, như những đốm lửa bé xíu nhen ấm góc trời Đông. Thầy Hân đứng dưới mái hiên chùa nhìn những búp hoa xanh tơ lòng bâng khuâng nhớ ân sư. Chú tiểu đang chùi bộ lư đồng:



- Năm này mai trỗ đúng Tết phải không thưa thầy?

- Ừ.Chú tiểu vẫn bậm môi, kẹp cứng chiếc lư giữa hai bàn chân, hai tay kéo giẻ dạ chạy qua chạy lại chà xác chiếc lư đồng ngời lên. Nghỉ tay, chú lại hỏi:


- Con nghe người ta nói sáng mồng một mai vàng nở là năm đó tốt lành phải không thưa thầy?

- Dị đoan! Tốt xấu do hạnh nguyện, tu tập, sự lao động của mình mắc chi mai nở mai tàn, nhưng người ta hay tin giờ phút mới mẻ, thiêng liêng ngày đầu năm, trong nhà có sắc khí tươi tắn của mai vàng thì may mắn. Hơn nữa cốt cách mai vàng đoan chính, dẻo dai chịu đựng mưa gió nóng lạnh suốt năm, chờ Tết khai hoa đón xuân về.




xxx​




Sau thời kinh đầu ngày, thầy thong thả ra y áo, thay nhật bình qua nhà trai thưởng trà. Chú điệu hớt hải chạy vào:
- Bạch thầy, cây mai…mai…
Thầy chiêu một ngụm, rồi bỏ tách trà xuống. Biết có chuyện quan trọng. Vẻ mặt thầy vẫn ánh nét dịu hiền, dằm thắm để giảm sự căng thẳng từ chú tiểu:
- Chuyện chi mà vội vội vàng vàng rứa?
- Dạ, cậy mai bị trộm rồi!
Dù cố bình tĩnh nhưng mặt thầy lộ nét nghiêm trọng. Cây mai trước do chính ân sư trồng, ân sư nâng niu cây mai như tăng chúng trong chùa. Bây giờ ân sư đã viên tịch, thầy thương quý nó như ân sư; kỷ niệm còn lại của ân sư trong tâm khẳm của thầy là lời dạy bảo, đức hạnh của ân sư, ngôi chùa và cây mai nầy. Thầy có trách nhiệm chăm sóc vun vén nó. Tuy vậy, thầy vẫn điềm tĩnh, từ tốn đi theo chú tiểu đang chạy lóc cóc đôi guốc mộc trở lại trước chùa.
Thầy Hân đứng sững trước bồn hoa trống không. Cây mai không cách mà bay!? Rải rác trên nền đất mấy bông hoa nhàu úa, chỉ còn gốc mai bám rêu xanh, trơ trất thớ gỗ còn lùi xùi mùn cưa ướt... Chú tiểu mắt rướm nước:









- Hu... hu.. ui... ai cưa trộm cây mai rồi... hu...
Thầy Hân không nói gì lặng lẽ lấy đi cái cưa, hì hục cưa ở gốc mai còn lại lấy ra khúc gỗ chừng một tấc. Chú tiểu ngạc nhiên hỏi:


- Cưa khúc gộc làm chi vậy thưa thầy?

- Rồi chú sẽ biết... chú đi chợ tết với thầy nhé?


xxx​


Chợ hoa tết ven sông tràn lấn hè phố. Người mua người bán đông đúc. Trên vỉa hè một rừng mai quá đầu người mọc lên từ hồi nào. Thầy dẫn chú tiểu len lỏi suốt buổi mà chưa chọn được một nhánh mai nào. Thầy biết ý, an ủi chú tiểu:

- Chịu khó một lát nữa rồi về, ai đời đi chơi chợ Tết mà mặt mày bí xị như bị mất sổ gạo vậy?

Thầy đứng trước một cây mai rất giống cây mai trước chùa, chăm chú nhìn tỉ mỉ từ gốc cho tới ngọn, kể cả những u nần xù xì… Rồi thầy hỏi thằng bé đứng bán gốc mai ấy:

- Bố mẹ cháu đâu cháu phải bán mai một mình thế?

- Bố cháu đang ở bệnh viện chăm sóc bà nội cháu bệnh nặng, trưa bố cháu mới ra thay cháu. Sư thầy mua đi, hoa có sáu cánh thầy ạ, chiều thế nào người ta cũng mua mất uổng lắm. Cháu bán rẻ mà.



- Rẻ là bao nhiêu? - Ba triệu hai không bớt, sư thầy coi đẹp thế này. Thay Hân đứng trầm ngâm một hồi rồi nói:
- Thôi đựơc ông mua cho cháu ba triệu, mau đi gọi cha cháu ra đây nhận tiền. Thằng bé "dạ" một tiếng rồi cắm cổ chạy đi sau khi cẩn thận nhờ người bán mai kế bên trông chừng. Thằng bé trở lại dẫn theo một người đàn ông có dáng đi thập thững. Ông nhìn thầy với cài nhìn lấm lét, dò xét và cất giọng cò kè:
- Thầy cho đúng ba triệu hai.
- Cũng được, nhưng nhờ chú cùng tôi chở cây mai lên nhà tôi.
- Không. Tui bận lắm, thầy có mua thì đưa tiền đây, tui bưng lên xe cho thầy - Người đàn ông dặn thằng bé
- Tau không bán nữa, tau có việc, mi không được kêu tau nghe chưa.
Thấy người đàn ông định lủi mất vào đám đông, thầy Hân gọi:
- Chú nớ, tiền đây tới lấy! Mắt người đàn ông sáng lên, quày quả đi lui.
Thầy Hân gọi mọi người đến vây quanh người đàn ông và cây mai, nói:
- Nhờ bà con cô bác chứng kiến hộ tôi
– Thầy Hân lục xách lấy khúc gỗ mai cưa đem theo
- Đây là cây mai nhà tôi bị cưa trộm đêm qua, cô bác coi này!
Thầy Hân nhờ một anh thanh niên nâng cây mai trong thùng sắt lên, ráp khúc gỗ mai đem theo khít vào gốc cây mai người đàn ông bán. Mặt người bỗng tái đi, nói lắp:
- Cây mai của tui mà, cây giống cây, thầy ráp vào gộc nào cũng vừa,đừng nói bậy... người tu hành đừng vu...
Thầy Hân với tay cào lớp rêu vào cục u nần, sù sì trên thân cây mai, lộ ra pháp danh của thầy màu vàng cháy, nói:
- Chú không còn chối bừa nữa nhé, đây là pháp danh của tôi, tôi khắc Tết mấy năm trước. Trước hai chứng cớ rõ ràng, người đàn ông run rẩy định lẻn nhanh ra khỏi vòng người. Anh thanh niên nhanh tay bẻ quặt tay người thầy đàn ông lại và nói:
- Thầy đem hắn vào đồn công an. Mọi người ra vẻ đồng tình, ai ai cũng nhìn người đàn ông với ánh mắt không thiện cảm, xen lẫn thương hại. Thằng bé đứng lớ ngớ bên cha nó khóc…
- Xin thầy tha cho ba cháu, nhà cháu nghèo lắm!
- Ai nghèo cũng đi ăn trộm cả à?
- Có tiếng người nói to.
- Mẹ tui bệnh, tui trộm mai bán lấy tiền lo thuốc thang cho mẹ, xin thầy xá tội cho tui lần đầu!
Thầy Hân đứng trầm ngâm một hồi rồi thủng thẳng nói:
- Thôi xin bà con tha cho chú làm phước. Chú đưa cây mai về giúp tôi, tôi không đưa chú đến công an đâu mà sợ, tôi ngần nầy tuổi nầy rồi không lừa chú đâu.
Người đàn ông lập cập cùng thằng bé vác cây mai ra xe xích lô. Thầy và chú tiểu lên xe chạy theo cùng. Trên đường ngang bệnh viện, thầy bảo thằng bé trông chừng cây mai và chờ thầy vào bệnh viện thăm mẹ chú bán mai.
Trong bệnh viện thầy Hân thấy mẹ chú bán mai com rom trong lớp chăn cũ. Bà cụ mệt nhọc thở. Nghe tiếng chú bán mai gọi, cụ bà hé đôi mắt mờ và cái miệng xám xịt thều thào:
- Con mua thuốc cho mẹ chưa? Mẹ đau trong người lắm!
Chú bán mai mân mê cánh tay da bọc xương của mẹ rơm rơm nước mắt!
Thầy Hân lấy ra xấp tiền khoảng bốn triệu đem theo để chi dùng, bọc trong giấy báo đưa cả cho chú bán mai:
- Anh cầm tiền lo thuốc thang cho bà cụ. Chú bán mai cầm xấp tiền tay run run. Chợt chú quỳ xuống trước mặt thầy Hân, vừa khóc vừa nói:
- Cháu và mẹ cháu đội ân thầy suốt đời. Thầy Hân đỡ chú bán mai đứng lên và khuyên nhủ mấy lời tâm huyết rồi từ biệt chú bán mai cùng bà cụ.
Cây mai vàng của chùa đã trở về chùa. Nó không đứng trong bồn hoa mà đứng trong nhà trai. Vừa treo những thiệp Tết lên cây mai chú tiểu vừa ngẫm nghĩ câu nói của người xưa "Người ta thường ngả mủ trước tài năng, nhưng sẵn sàng quỳ gối trước lòng tốt"
- Quay sang nói với thầy Hân:
- Chú bán mai quỳ gối trước lòng nhân ái của thầy?
- Lòng nhân ái không cầu người khác quỳ gối, mà cầu cảm hóa được họ.
Tất cả mọi sự đều vô thường, sống chết của con người cũng vô thường huống chi là cây mai, hôm kia thầy học được bài học hiếu thảo từ chú bán mai, bài học dạy cho thầy kính yêu cha mẹ và ân sư hơn, chỉ cho thầy biết buông bỏ và ban cho. Chú tiểu à, chỉ có nghiệp theo ta mãi mãi
- Thầy Hân ngước lên nhìn bầu trời, lẩm bẩm
- Mùa xuân đã về mang bao niềm hoan hỷ đến với mọi người…
Nếu ai từ bi, niềm hoan hỷ trong tâm tư nhân lên gấp bội…
Chú tiểu hiểu lời dạy của thầy: - A DI ĐÀ PHẬT.

Huế, 021012 N. N. A
 
Last edited:
[SIZE=+0]NGHIỆP Luật....[/SIZE]


Đâu có khác gì giáo lí đạo thiên chúa : phạm tội ác sẽ phải trả đời này và cả đời sau..hoặc Ngụ ngôn người gieo hạt..gieo hạt nào..sẽ phải gặt trái đó

Cách thánh lễ là để tỏ tấm lòng của người sống ... cầu xin Thiên Chúa thương xót ...cho người đã chết... nhưng tội nào có khung hình phạt đó rồi..làm sao giảm được..

Trong Công Đồng Vatican no II ( 1962) Đức Thánh Cha Gioan XXIII đã phán rằng : Đạo Phật quả thật có tính cứu độ con người
Và từ nay cho phép các tín đồ được giao lưu thoải mái với đạo Phật ( do đó lão mỗ thỉnh thoảng vô chùa ở mươi...ngày là thế )

Trong lịch sử Đạo Thiên Chúa mấy ngàn năm ...Công đồng Vatican được tổ chức có 2 lần
Mỗi lần họp Để cải tổ các giáo luật cho hợp với thời đại và lần thứ 2 (1962)Gọi là Công Đồng Đại Kết ( đại đoàn kết)
 
Trừ cái tôn-giáo chủ-trương càng giết người, càng sớm lên thiên-đàng, được thưởng 72 trinh-nữ (!?), thì tôn-giáo nào cũng giúp cho xã-hội chúng ta rất nhiều về mặt đạo-đức. Riêng cá-nhân tui, nếu tui không có một tôn-giáo để theo, chắc tui cũng giống như một chiếc xe be chở gỗ, không thắng, xuống dốc đèo...!
 
Lão ma đầu nói chí phải. Bất kỳ tôn giáo nào thuộc về chánh giáo đều giúp con người hướng thiện. Chính những vị tu sĩ là giai cấp giữ giềng mối đạo đức cho xã hội. Không có họ, ta sẽ dần sa lầy vào những " nét riêng" và đạo đức xã hội sẽ tuột dốc. Họ đáng được trân trọng là vì lý do ấy chứ không phải vì các phép thần thông của họ. Đó cũng là ý chính trong câu chuyện "Thầy Tu bắt trộm" mà lão vừa đăng. Từ Bi vẫn là tư tưởng chủ đạo để các tôn giáo noi theo cho dù có khác nhau về mức độ.

Ngu mỗ cũng hòan toàn đồng ý với lão ma đầu về việc hậu thế đang dần dần đi xa khỏi cái gốc của đạo Phật. Họ chú ý nhiều đến các pháp môn ( và thậm chí áp dụng sai) mà không thấy rằng đó chỉ là ngón tay chỉ mặt trăng. Sao không cứ là Tứ Diệu đế, là Bát chánh đạo mà thẳng đường tu lão nhỉ?

Đaọ Phật có hàng vạn pháp môn để tiến tới Niết Bàn cũng như Kito giáo có câu cửa miệng " đường nào cũng về La Mã". Tuy nhiên việc vận dụng các pháp môn không phải là chuyện dễ dàng. Khả năng tẩu hỏa nhập ma là rất lớn nếu không có minh sư dẫn dắt. Đi tắt chưa hẳn lúc nào cũng là con đường đi đến đích sớm nhất. Khổ nỗi nhiều người lại thích chọn con đường tắt và đôi khi cái giá lại quá đắt...
 
Nguyên nhân tục đốt vàng mã
(PSN) Đã có một thời các quan cách mạng đồng loạt phát động phong trào đả phá hết thảy tục lệ tín ngưỡng dân gian, chế diễu tôn giáo, ma chay, thần hoàn, lên án duy tâm chủ nghĩa, tụng ca duy vật biện chứng. Thế là thầy cúng, cô cậu đồng, nhà làm vàng mã phải đổi nghề, trong khi Cha, Sư phải cúi đầu chịu tủi nhục trong đấu tố để cố duy trì mạng mạch tâm linh trong tâm tối. ... (Thủy-canh xin phép cắt bớt)... ấy lại âm thầm lén lút thắp hương, lập bàn thờ, bái lạy vong linh, biểu tượng tín ngưỡng... Khoảng hơn một thập niên trở lại phong trào ấy lại công khai lan rộng khắp cả nước. Và người ta không cần phải che dấu nữa. Phải chăng họ đã ý thức được phần đạo đức tinh túy trong đời sống tâm linh hướng tới cái thật, cái lành và cái đẹp (chân - thiện - mỹ) của con người. Hay chỉ để khẩn cầu, hối lộ một trong những đấng "ơn trên" nào đó cho lòng tham hoặc mua lấy ảo giác "yên ổn" cho sự cắn rứt của lương tâm vì những việc khất tất nào đó giữa chốn quan trường, hay trên sinh mạng và tài sản của người khác? Câu trả lời có lẽ khá tiêu cực, vì động thái mê tín của họ đã kéo theo những hiện tượng cầu đảo, thầy cúng, lên đồng, đốt vàng mã đã bắt đầu thịnh hành rất mạnh như nấm mùa thu và lan sang giới bình dân trong mấy thập niên trở lại đây, nhất là ở các tỉnh phía Bắc. Trong bối cảnh tranh tối tranh sáng giữa hủ tục và văn hóa tâm linh ấy Phù Sa rất trân trọng giới thiệu bài viết của cố Hòa thượng Thích Tố Liên viết năm 1952 chỉ để phân định rạch ròi đâu là mê tín, và đâu là văn hóa tâm linh.


Một cửa hiệu bán hàng mã ở Hà Nội với nhà lầu, xe hơi, Iphon 4G ... rất đắc khách (LĐ)​

Ở đời, cái gì cũng phải có nguyên nhân mới có kết quả, tục đốt vàng mã cũng vậy.
Đọc kinh Dịch nhà Nho, chúng ta thấy rằng: tục chôn người chết của người Trung Hoa về đời thượng cổ, một khi có người chết cứ để thế đem chôn, không quan không ván, lại cũng không khanh phần mộ gì cả. Đến đời vua Hoàng đế (267 tr. TL) cho rằng: con cháu đối với ông bà, cha mẹ trong việc mai táng cẩu thả như thế là thiếu bổn phận, mới sai ông Xích Xương sáng chế ra quan, quách để chôn cất. Trải qua đời Hoàng đế, đến đời Đường Ngu, tục lệ chôn cất người chết chỉ có thế.

Nối nhà Ngu là nhà Hạ (2205 tr. TL), người Trung Hoa mới bắt đầu dùng đất sét nặn làm mâm bát, dùng tre gỗ làm nhạc khí, như chuông khánh, đàn sáo v.v... để chôn theo người chết. Các đồ vật đó được gọi là minh khí, hoặc gọi là quý khí, tức là những đồ vật đem chôn theo cho thần hồn người chết dùng ở âm phủ, lễ nhạc đối với người chết bắt đầu có từ đấy. Đã chế ra đồ dùng cho người chết, tất nhiên phải có kẻ hầu hạ người chết, thế là người ta lại chế ra người bù nhìn bằng gỗ đem chôn theo người chết. Đến đời nhà Ân (1765 tr.TL), lại không dùng mâm bát đồ đất và nhạc khí bằng tre gỗ để chôn theo người chết nữa, họ dùng toàn đồ thật chôn theo.

Đến đời nhà Chu (1122 tr.TL), người Trung Hoa đã bắt đầu văn minh hơn; cố nhiên lễ nhạc đối với người chết cũng được ăn nhịp mà tiến bộ, người chết đối với người chết, đã được người sống phân ra giai cấp sang, hèn trong việc thực hiện lễ nghi chôn cất. Từ vua cho đến các quan lớn khi chết đi, sẽ được dùng cả đồ vật giả theo lệ nhà Hạ, đồ vật thật theo lệ nhà Ân để chôn theo các vua chúa đã chết; còn từ hạng sĩ phu tới bình dân, khi chết chỉ được chôn theo độc nhất một thứ đồ giả thôi. Nếu người hèn hạ nào mà dùng lễ nghi ngang với người sang, tức khắc phải tội "tiếm lễ".

Không những thế, dã man nhất, độc ác nhất là người ta còn bịa đặt ra những "tuẫn táng"; nghĩa là khi các vua và các quan lớn chết đi, từ vợ con đến bộ hạ của các vua, các quan lớn, đồ yêu quý của người chết khi còn sống, sẽ phải đem chôn sống để làm đồ dùng khi đã chết. Sách Tả Truyện chép: "Đời vua Văn Công thứ sáu, vua Trần Mục Công tên là Hiếu Nhân chết, ba anh em họ Tứ Xa là Yểm Tục, Trọng Hành và Chàm Hổ đều bị chôn sống theo Mục Công. Người trong nước tỏ lòng thương tiếc ba anh em họ Tứ Xa là người hiền đức, mới làm ra thơ Hoàng Diệu để tỏ ý than vãn, mỉa mai. Trong thơ đại ý nói: Ba anh em họ Tứ xa đều là những người hiền đức gấp trăm nghìn người khác, trời đất ơi! Sao nỡ đem chôn sống để đi theo người đã tận số là Mục Công. Nếu ba trăm người như chúng tôi này được chết theo Mục Công để thế mệnh cho ba người hiền đức ấy, chúng tôi rất vui lòng mà chết thay".

Về sau người ta cũng biết đem người sống chôn theo với người chết là vô nhân đạo, mới chế ra người cỏ Sô Linh, sau vì người cỏ không được mỹ thuật, người ta lại dùng đồ gỗ "Mộc ngẫu" như trước. Sách Trang Tử chép: "Vua Mục vương nhà Chu (1001 tr. TL) có người tên là Yến Sư chế ra người cỏ để chôn theo người chết. Đức Khổng Tử đọc đến chuyện này liền than rằng: Kẻ nào sinh ra tục chôn người gỗ theo với người chết là bất nhân. Thầy Mạnh Tử cũng đau buồn với tục hình nhân thế mệnh mà nguyền một câu rằng: Kẻ nào dùng người bù nhìn là tuyệt tự". Đến thời nhà Hán, giới trí thức Nho học cảm động với lời tuyệt cự thống thiết của ngài Khổng, Mạnh trong tục lệ dùng người sống chôn theo với người chết, mới bỏ tục lệ "tuẫn táng", không dùng người sống chôn theo với người chết nữa, nhưng lại làm ra nhà mồ để cho vợ, con, tôi, tớ người đã chết ra để ấp mộ. Còn các thức đồ ăn mặc... của người chết kia, khi còn sống dùng những thứ gì, khi chết cũng đem chôn theo hết. Ngôi nhà mồ kia muốn cho thêm oai vẻ, người ta lại đục phỗng đá, voi, ngựa đá để bài trí chung quang phần mộ.

Từ đời Hán Hoa đến năm Nguyên Hưng nguyên niên (105), ông Thái Lĩnh bắt đầu lấy cỏ cây dó và vải rách, lưới rách đem chế ra giấy. Đã có giấy, ông Vương Dũ liền chế ra vàng bạc, quần áo v.v... đều bằng đồ giấy để cúng rồi đốt đi để thay thế cho vàng bạc và đồ dùng thật trong khi tang ma, tế lễ. Sách Thông Giám cương mục chép: "Vì vua Huyền Tôn mê thuật quỷ thần mới dùng ông Vương Dũ làm quan Thái thường bác sỹ để coi việc chế vàng mã dùng trong khi nhà vua có tế lễ. Chúng ta có thể liệt Vương Dũ vào hàng thủy tổ nghề vàng mã được".

Trong Phật giáo, đức Phật Thích Ca không hề dạy đốt vàng mã để cúng gia tiên. Thế thì tại sao ngày rằm tháng Bảy là ngày lễ trọng thể của Phật giáo, mà một số tín đồ nhà Phật đốt rất nhiều vàng mã để kính biếu gia tiên?

Nguyên nhân đốt vàng mã vào ngày rằm tháng Bảy là thế này: Vào thời vua Đạt Tôn nhà Đường (762) bên Trung Hoa, nhằm lúc Phật giáo cực thịnh, một vị sư tên là Đạo Tăng muốn cho dân chúng theo Phật giáo, bèn lợi dụng tục đốt vàng mã của người dân, vào tâu với nhà vua rằng: rằm tháng Bảy là ngày của Diêm Vương ở âm phủ xét tội phúc thăng trầm, nhà vua nên thông sức cho thiên hạ, trong việc lễ cúng gia tiên vào ngày rằm tháng bảy nên đốt nhiều vàng mã để cúng biếu các vong nhân dùng.

Vua Đạt Tôn đương muốn được lòng dân nên rất hợp ý với lời tâu của Đạo Tăng, liền hạ chiếu cho thiên hạ. Thế là nhân dân Trung Hoa lại được dịp thi nhau đốt vàng mã vào ngày rằm tháng Bảy để kính biếu gia tiên. Nhưng chẳng bao lâu lại bị giới Tăng sĩ Phật giáo công kích bài trừ, vì cho rằng việc đốt vàng mã vào ngày lễ trọng của Phật giáo đã làm cho cái lệ ngày 15/7 không còn có chính nghĩa nữa. Phần lớn dân chúng Trung Hoa hồi đó đã tỉnh ngộ, cùng nhau bỏ tục đốt vàng mã, làm cho các nhà chuyên sinh sống về nghề nghiệp vàng mã gần như bị thất nghiệp, nhất là người Vương Luân, dòng dõi của Vương Dũ, đã bịa đặt chế ra đồ vàng mã.

Thất nghiệp, Vương Luân mới bàn cùng với các bạn đồng nghiệp âm mưu phục hưng lại nghề nghiệp hàng mã. Một người giả cách ốm mấy hôm, rồi tin chết được loan ra, còn cái xác giả chết kia lập tức được khâm liệm vào quan tài, đã có lỗ hổng và sẵn sàng thức ăn, nước uống. Đương khi xóm làng đến thăm viếng đông đúc, Vương Luân với gia nhân và họ hàng của ông, đem cả hàng ngàn thứ đồ mã trong đó có cả hình nhân thế mệnh ra cúng người chết. Họ bày đàn cúng các quan thiên phủ, địa phủ và nhân phủ. "Chà! Chà! Phép quỷ thần mầu nhiệm quá nhỉ! Thiêng liêng quá nhỉ!" - khi mọi người đương suýt xoa khấn khứa, bỗng trăm nghìn mắt như một, trông thấy hai năm rõ mười, cỗ quan tài rung động lên.

Bấy giờ, Vương Luân đã đứng sẵn bên quan tài. Chàng giả cách chết kia cũng lò dò ngồi dậy, giả vờ lù dù, trông trước, trông sau, mới bước từ quan tài ra, với một điệu bộ như người chết đi sống lại, rồi thuật lại chuyện với công chúng rằng: "Các thần thánh trong tam, tứ phủ vừa nhận được hình nhân thế mệnh cho tôi, với tiền bạc và đồ mã, nên mới tha cho ba hồn bảy vía của tôi được phục sinh về nhân thế". Công chúng lúc đó ai cũng tưởng thật, cho rằng hình nhân có thể thế mệnh được và thành thần trong tam, tứ phủ cùng ăn lễ đồ mã, tăng phúc, giảm tội và cho tăng thêm tuổi thọ. Từ đấy các nghề hàng mã lại được phục hưng một cách nhanh chóng vì không những linh hồn các gia tiên dùng vàng mã, mà đến cả thiên, địa, quỷ, thần trong tam, tứ phủ cũng tiêu dùng đồ, thì nhiên là vàng mã phải đắt hàng. Chuyện này còn chép rõ ràng ở sách Trực Ngôn Cảnh Giáo.

Như thế, chúng ta nên thẳng thắng nhìn nhận rằng: "Bịa đặt ra tục mê tín, dị đoan, làm hình nhân thế mạng vào lễ tam, tứ phủ để đầu độc mê tín đến ngày nay là bắt đầu từ người Vương Luân. Người Trung Hoa đã bị cái bả mê tín vàng mã do Vương Luân đầu độc đến nay đã được 1847 năm (1052-1952). Dân tộc Việt Nam chúng ta mê tín cũng chẳng kém thế, nhưng vì trước đây, chúng ta bị họ đô hộ hơn 1.000 năm. Phong tục của người họ như thế nào, người mình cũng dập theo đúng khuôn khổ như vậy, bất luận hay, dở, phải, trái, tà, chính. Đó là do cái tính cẩu thả, phụ họa của người mình.

Nếu chúng ta đã thừa nhận tinh thần của dân tộc Việt Nam đều nhờ Phật giáo và Nho giáo đào tạo nên, vậy thì xin hỏi giới trí thức Việt Nam: hiện tại có ai tìm thấy Phật giáo và Nho giáo dạy về thuyết đốt vàng mã ở kinh sách nào? Nếu không tìm thấy tục đốt vàng mã do Phật giáo hay Nho giáo truyền dạy, một lần tôi xin thiết tha yêu cầu người Việt Nam ta bỏ tục vàng mã đi, và khuyên mọi người cùng bỏ tục ấy. Chúng ta cùng nhau triệt để bài trừ mê tín đốt vàng mã, quyết nhiên giữa dân tộc Việt Nam này để dành cho chúng ta viên thành một công nghiệp kiến quốc vậy.



__._,_.___


<tt> -> www.thunhandalat.net.</tt>
 
Back
Top