Đọc lúc rảnh

... một lần tôi xin thiết tha yêu cầu người Việt Nam ta bỏ tục vàng mã đi .....Chúng ta cùng nhau triệt để bài trừ mê tín đốt vàng mã, quyết nhiên giữa dân tộc Việt Nam này để dành cho chúng ta viên thành một công nghiệp kiến quốc vậy.


Link : http://agriviet.com/home/threads/103351-Doc-luc-ranh#ixzz2EzAxpHWH


Tục đốt vàng mã theo tôi là văn hóa dân gian hình như bắt chước người Hoa..

Xét cho cùng điều ấy có gì là xấu ? khi người còn sống biểu lộ tình thương và gởi vật chất tiền bạc cho người quá cố để bên kia thế giới thân nhân của họ có....tiền sài?

Điều ấy sẽ làm tai hại gì cho xã hội..khi mà ngề làm vàng mã sẽ nuôi sống được nhiều người..trong khi xã hội đang thất ngiệp tràn lan...trộm cướp do thiếu và đói !?
Liệu cái ông mà đang ra sức kêu gọi mọi người đừng đốt vàng mã nữa...ông sẽ tạo ra được bao nhiêu việc làm...cho những người đang hành ngề sản xuất vàng mã ? nếu họ nge lời ông mà giải ngệ !?

Nếu nói là hoang phí...thì đúng là tào lao...người ta bỏ tiền ra mua..để người khác thu tiền ấy vào nuôi sống gia đình và thân sao gọi là hoang phí ? khi mà dịch vụ ấy có lợi cho cả 4 bên :
Nhà sản xuất.và bao nhiêu công nhân cùng có việc làm
Người mua.để đốt .có cảm giác đã chu toàn bổn phận với thân nhân
Người bán...có tiền sài
Và người chết...có vật chất và tiền bạc để...sài

Pháo bông bắn lên trời cả nhiều tỉ đồng trong vài phút...xét cho cùng vẫn không phải là hoang phí

Màn bắn pháo hoa trị giá 15 triệu usd của kuweit vào ngày 10 tháng 11 vừa qua hoành tráng nhất thời đại :



phaohoa01-54627.jpg

Kuwait tổ chức màn pháo hoa kỷ niệm 50 năm hiến pháp ra đời.


phaohoa02-54627.jpg

Màn pháo hoa trị giá 15 triệu USD đã kéo dài hơn 1 giờ đồng hồ.

phaohoa04-54627.jpg

Hơn 77.000 quả pháo hoa đã được bắn.


phaohoa08-54627.jpg

Màn trình diễn tạo ra kỷ lục Guinness mới.


cats-84d0d.jpg


phaohoa09-54627.jpg


phaohoa10-54627.jpg

Rất nhiều người dân đổ xô ra xem màn bắn pháo hoa hoành tráng này.


phaohoa11-54627.jpg


phaohoa12-54627.jpg

Cậu nhóc trèo lên vai cha để chiêm ngưỡng rõ hơn màn bắn pháo hoa.


phaohoa13-54627.jpg

Rất nhiều người dân Kuwait lưu giữ khoảnh khắc đáng nhớ này.


phaohoa15-54627.jpg


phaohoa16-54627.jpg


phaohoa18-54627.jpg

Pháo hoa đủ màu sắc trên bầu trời Kuwait.

vào link sau xem video :
http://kenh14.vn/doi-song/cung-chie...trang-nhat-moi-thoi-dai-20121112032619927.chn
 
Last edited by a moderator:
Hì hì, Sydney năm nào cũng đổ tiền triệu ra đốt pháo bông cho bà con xem chơi, ngầm trong đó là giới-thiệu với những người ngoại-quốc đang chọn nơi đi du-lịch.
Một nước chưa giàu như VN thì theo thiển-ý (thử đứng xa xa mà nhìn):
- Không nên bỏ ra một số nhân-lực quá lớn để: người thì chế-tạo ra vàng mã, người thì tốn thời giờ đi đốt! Công đâu công chùa? Của đâu của dư?
- VN có nên bắt đầu bước đi ra khỏi tối tăm, phong-thần chưa?
*
Hì hì, đưa bài nầy lên, rồi phải chạy ngay, ở lại là chết với Lão Tà!
Chạy rồi mà vẫn có điều tiếc! Tiếc gì?
Tiếc là:
- Con gái tui xem thì cũng xinh tươi, đẹp đẽ lắm! Không tệ chút nào. Chỉ có cái là bây giờ thì hơi lớn tuổi. Phải chi nó trẻ lại chút. 'Của trời cho" nó có sẵn, thanh-niên thì thiếu gì đứa bức-xúc, mắc gì cứ đưa ra nước ngoài cho người ta chơi? Sao không mở động? Tức chớ! Tức rồi tiếc của...
(Thủy-canh lủi đống rơm trốn mất tiêu rùi!) Hì hì...
Nói vậy chứ, cái gì cũng phải hợp-lý. Phải hôn Lão Tà?
Thân.
 
Viagra của người Mông ( Tây Bắc) :


thứ sáu 14 tháng 12 năm 2012

TRUY LÙNG " TỨN KHỬN "- THẦN DƯỢC PHÒNG THE CỦA NGƯỜI MÔNG


Tin đồn về một loại thần dược phòng the của người Mông ở vùng Tây Bắc đã bay đi khắp nơi và làm náo nức bao người muốn đạt được phong độ đỉnh cao trong "chuyện ấy". Theo tiếng địa phương "tứn khửn" có nghĩa là "dựng lên".<o:p></o:p>


Bí quyết “phòng the” “học” theo... thú rừng<o:p></o:p>
Hiếm có con đường nào gian nan như đường lên bản Pu Hao, xã Mường Lạn, huyện Sốp Cộp (Sơn La), nơi được cho là sự khởi nguồn của tin đồn về loại biệt dược tăng cường tối đa sự sung mãn của đàn ông. Chúng tôi chẳng nhớ mình đã vòng vèo qua bao nhiêu đèo dốc quanh co với những khúc cua gập khuỷu tay, một bên là vách đá cao sừng sững, một bên là vực sâu thăm thẳm như đánh đố người đi đường. Chỉ biết rằng khi đến nơi thì người và xe đều đã "tả tơi" như vừa đi đánh trận về.<o:p></o:p>
Ấy vậy mà người ta vẫn không ngừng rỉ tai nhau cho những cuộc hẹn hò lên Pù Hao (Pu Hao) săn lùng thuốc quý. Điều đó chứng tỏ vấn đề củng cố "bản lĩnh đàn ông" đối với cánh mày râu hẳn luôn là một trong những ưu tiên hàng đầu. Theo những lời dặn dò của một số anh em đã từng đến Pu Hao từ trước, chúng tôi tìm đến nhà ông Giàng Dua Dê (bí thư Chi bộ bản Pu Hao). Ông được cho là người nắm rõ nhất những bí mật của bài thuốc quý "tứn khửn" (theo tiếng địa phương "tứn khửn" có nghĩa là "dựng lên") được cánh mày râu săn lùng chẳng khác gì truy tìm kho báu.<o:p></o:p>
[TABLE="align: center"]
<tbody>[TR]
[TD]
01-001.jpg
[/TD]
[/TR]
[TR]
[TD]Những vị thuốc quý từ cây rừng trong phiên chợ vùng cao[/TD]
[/TR]
</tbody>[/TABLE]


Ngoài ra, ông Dê cũng là người được các bậc tiền nhân truyền dạy "bí kíp" của nhiều phương thuốc quý được đúc kết từ kinh nghiệm làm thuốc, chữa bệnh của nhiều thế hệ người Mông đã sinh sống ở nơi này. Nghe tin có khách đến tìm, ông Dê hớt hải chạy về, quần ống thấp ống cao rõ là một người bận rộn. Nhìn từ xa, thấy dáng một người đàn ông khỏe khoắn, bước đi nhanh nhẹn, chúng tôi cứ ngỡ đó là một chàng trai trẻ, không ngờ đó lại chính là ông cán bộ Giàng Dua Dê về tuổi tác đã được xếp vào hàng có vai vế trong vùng, về gia thất đã đề huề con cháu.
<o:p></o:p>
Ông niềm nở mời chúng tôi vào nhà, không quên bê ra mấy vò rượu quý để đãi khách phương xa. Chưa hề uống rượu mà nước da của ông cứ hồng hào như người đánh phấn khiến một phụ nữ như tôi cũng không khỏi thầm ghen tị. Theo lời giới thiệu của ông Dê thì mỗi vò rượu đều được ngâm theo một công thức riêng và có một công dụng đặc biệt để dùng cho việc chữa bệnh hoặc bồi bổ sức khỏe. Mỗi loại, ông đều múc cho chúng tôi mỗi người một chén để uống thử nhưng đến vò rượu cuối cùng thì ông chỉ múc riêng cho anh bạn đi cùng một chén vơi vơi còn tôi thì không có phần.<o:p></o:p>
Khi tôi thắc mắc thì ông Dê chỉ cười cười bảo "loại này chỉ dành cho đàn ông thôi à!". Cả tôi và anh bạn quay sang nhìn nhau, mắt hấp háy vì biết đây là thứ chúng tôi đang tìm kiếm. Anh bạn ngửa cổ, dốc hết chén rượu duy nhất không được rót đầy rồi khoan khoái chờ đợi. Nhìn ánh mắt đầy ngưỡng mộ của anh chàng dành cho hũ rượu quý cùng chủ nhân của nó cũng đủ thấy công dụng tuyệt vời của nó. Không cần chủ nhà giới thiệu cũng đủ biết đây chính là "viagra" miền sơn cước có tên "tứn khửn" mà chúng tôi đã từng được nghe kiếm.<o:p></o:p>
Khi hỏi về nguồn gốc của vị thuốc được mệnh danh là thần dược "sung sướng" này, câu trả lời của ông Dê khiến chúng tôi vô cùng bất ngờ khi được biết người dân ở đây có được bài thuốc "tứn khửn" là nhờ học hỏi từ bí quyết "phòng the" của thú rừng trong mùa sinh sản. Ông Dê cho biết, vị thuốc chủ yếu trong "tứn khửn" được lấy từ cây "chí chuôn chua" (hay còn gọi là "chí chiền chùa"), một món ăn khoái khẩu của thú rừng trong mùa sinh sản.<o:p></o:p>
"Chí chuôn chua" là loại dây leo, có quả, sống dựa vào các cây cổ thụ nên chúng chỉ mọc trong rừng sâu, nơi có nhiều cây to, tán rộng, ít ánh nắng mặt trời. Cây này củ mọc dưới đất, lá nhỏ, màu xanh nhạt, dây và lá bò lan khắp mặt đất, quả chín có màu đỏ hồng, trông rất đẹp mắt. Điều đặc biệt và cũng là sự tương đồng giữa "chí chuôn chua" và công dụng "dựng lên" của vị thuốc "tứn khửn" là các quả của cây bao giờ cũng chĩa thẳng đứng lên trời một cách hùng dũng.<o:p></o:p>
[TABLE="align: center"]
<tbody>[TR]
[TD]
111.jpg
[/TD]
[/TR]
[TR]
[TD]Quả "chí chuôn chua"[/TD]
[/TR]
</tbody>[/TABLE]


Câu chuyện của ông Dê về xuất xứ của thần dược càng lúc càng trở nên hấp dẫn. Ông kể rằng ngày xưa, trong những lần vào rừng sâu săn thú, sau khi chứng kiến việc thú rừng thi nhau ăn một thứ quả kỳ lạ có màu sắc hấp dẫn, vị già làng đáng kính có tên là Giàng A Dương đã mạo hiểm ăn thử thứ quả lạ lùng này. Ăn xong, ông hồi hộp chờ đợi xem mình có bị làm sao không. Không ngờ, chẳng những ông không bị làm sao mà còn thấy tinh thần phấn chấn, toàn thân rạo rực như trở lại thời trai trẻ. Lúc đó, ông mới chợt hiểu vì sao lũ thú rừng lại “mê” cái món này đến thế.<o:p></o:p>
Ông lập tức hái quả "thần" mang về phơi khô, ngâm rượu uống dần. Và bài thuốc "tứn khửn" cũng trở thành bí quyết "chiều vợ hết mình" truyền đời của đàn ông người Mông ở nơi này. Quả "chí chuôn chua" bắt đầu chín vào mùa đông, khoảng tháng 9, tháng 10 âm lịch. Khi chín, quả có mùi thơm cay đặc trưng, hương thơm bay khắp cả cánh rừng. Đây cũng chính là mùa sinh sản của sóc và cầy hương. Mỗi khi quả chín, từng đàn sóc, đàn cầy lại rộn ràng rủ nhau đi khắp rừng già Pà Cạch tìm ăn những quả "chí chuôn chua" chín mọng để có một mùa sinh sản thật mỹ mãn.<o:p></o:p>


Khó tìm như "chí chuôn chua"<o:p></o:p>
Quả "chí chuôn chua" vốn đã vô cùng khó kiếm, lại phải tranh giành với những con thú nên việc có được quả quý lại càng trở nên khó khăn. Để có được những quả "chí chuôn chua" hiếm hoi này, đàn ông, trai tráng người Mông cũng phải tranh thủ từng giây, từng phút để giành từng quả một với các bầy thú nếu không muốn chấp nhận ra về tay trắng. Chỉ cần thấy trời trở lạnh, đàn ông Pu Hao lại chuẩn bị dụng cụ, mang theo lương thực, lặn lội vào rừng sâu tìm "chí chuôn chua". Càng hiếm hoi, khó tìm thì "chí chuôn chua" càng trở nên giá trị hơn bao giờ hết cho nên nếu không có nhu cầu thì họ có thể đem bán với giá vài triệu đồng 1kg.<o:p></o:p>
Nhưng nhiều người hết mùa đông này đến mùa đông khác, mùa nào cũng cơm đùm cơm nắm len lỏi vào tận những nơi sâu nhất, heo hút nhất của rừng già Pà Cạch với hi vọng tìm được "chí chiên chua" nhưng đều thất bại trở về hoặc chỉ nhặt được vài mẩu con con do lũ cầy, lũ sóc ăn thừa để lại. Ông Dê chép miệng với vẻ mặt đầy tiếc nuối: "Cầy, sóc trong rừng Pà Cạch đông như kiến. Chí chuôn chua chưa kịp chín chúng đã ăn hết sạch. Càng ăn nhiều chúng lại càng sung mãn, số lượng mỗi đàn sau mùa sinh sản lại tăng lên đáng kể. Chúng sẽ ăn hết mọi quả chí chuôn chua trong rừng mà không chừa lại cho ta một quả nào".<o:p></o:p>
Rời khỏi nhà ông Dê, chúng tôi lang thang trong bản để hỏi thêm về "món" biệt dược phòng the này. Ông Giàng A Lu, một người già trong làng cho biết, "tứn khửn" thực ra là một loại rượu thuốc được ngâm với 3 loại cây rất khó kiếm bao gồm “chí chuôn chua”, “cua chừ ma” (loại dây bò dưới đất có độ dài khoảng 3m) và một vị thuốc nữa cũng rất tốt có tên là “tứn khửn” (gần giống cây ráy nhưng lá chỉ cao khoảng 15 - 20cm). 3 loại cây này mang về thái nhỏ, phơi khô, ngâm rượu rồi hạ thổ ít nhất là 1 năm trở lên. Sau khi hạ thổ, rượu được mang lên làm lễ cúng tổ tiên sau đó mới được uống. 3 loại cây quý này một khi đã kết hợp với nhau trong vò rượu ngâm thì được coi như đã hội tụ đủ một bài thập toàn đại bổ với công năng tuyệt vời không thuốc gì sánh được.<o:p></o:p>
Ông Lu bảo: “Người đàn ông nào "yếu", lấy vợ đã lâu không có con, mỗi tối trước khi đi ngủ uống một chén nhỏ và duy trì đều đặn trong một tháng thì sẽ "khỏe" như thường và mọi thứ sẽ "đâu vào đấy”. Ở bản Pu Hao, tuy là nơi xuất xứ của những bài thuốc ngâm rượu độc đáo hiếm thấy nhưng không phải nhà ai cũng có được bình rượu có đầy đủ 3 vị thuốc quý này bởi càng ngày, những vị thuốc này càng trở nên hiếm hoi. Đó cũng là điều dễ hiểu khi hầu hết ai đó may mắn gặp được loại cây này đều "đào tận gốc, trốc tận rễ" để tận dụng hết cơ may của mình. Bên cạnh đó, vì đây là món ăn khoái khẩu của loài sóc và cầy hương trong khi số lượng của chúng lại nhiều vô kể nên những loài cây này càng dễ có nguy cơ tuyệt chủng trong nay mai.<o:p></o:p>

Theo Đời sống & Pháp luật


 
Tín ngưỡng là 1 hình thức để gieo đức tin. Việc này chẳng có gì là sai. Tuy nhiên lạm dụng tín ngưỡng là hành động sai quấy cũng như bài bỏ tín ngưỡng. Ví như trước bàn thờ chư Phật chúng ta thắp 1 nén hương là để qua cái hành động thắp hương, ta có dịp suy nghĩ về cái Tôi của mình, biết đặt cái Tôi của mình thấp xuống ( mà cụ thể là cúi đầu trước đức Phật) là 1 hành động tu thân. Cây nhang được cắm thẳng cũng như niềm tin là lòng ta sẽ ngay thẳng, khói nhang lan tỏa như ước nguyện gửi gắm lời cầu xin của ta đến mọi người ( mọi chúng sanh). Từ việc thắp nhang đó lâu dần ta sẽ gieo cho ta 1 nhân cách tốt. Đó mới thực là tín ngưỡng.

Nhang đốt cả bó, giấy tiền hàng mã đốt cả ôm thì cũng chẳng ích lợi gì mà ngược lại còn gieo vào ta 1 nhân cách xấu. Đó là thói vụ lợi thánh thần, vụ lợi người khuất mặt khuất mày. Đó là 1 hình thức đầu tư chứ không phải tín ngưỡng. Đầu tư kiểu đó nguy lắm thay !
 
Cám ơn bác NguSa đã giải-thích tường-tận. Giúp tui phân-biệt ý-nghĩa của lễ vậttấm lòng. Tỷ như, Đấng Toàn-năng phán:
- Nếu người mang lễ vật đến đền thờ, mà trong lòng ngươi còn "có vấn-đề" với người chung quanh, thì hãy để lễ vật lại, trở về làm hòa với anh em ngươi trước đã!
Hay như:
Một tu-sinh đến thưa với tu-viện trưởng:
- Thưa Cha, trong giờ đi dạo, con xin phép Cha được vừa hút thuốc, vừa suy-ngẫm.
- Không! Con không được phép.
Ngay sau đó, cũng một tu-sinh khác:
- Thưa Cha, trong giờ đi dạo, con xin phép Cha vừa suy-ngẫm, vừa được hút thuốc.
- Được, con được phép. Con đi bình-an.

--------

Đúng ra câu trên phải là:
- Nếu ngươi mang lễ-vật đến đền thờ dâng cúng cho ta, mà trong lòng ngươi còn bất-hòa với anh em ngươi, thì ngươi hãy để lễ-vật lại, trở về nhà, làm hòa với người anh em của ngươi trước đã. Bởi, anh em ngươi, cùng một cha mẹ với ngươi, trông thấy hàng ngày mà ngươi không thương được, thì làm sao ngươi có thể thương được Ta, là Đấng Vô-hình?
Tui thích câu trên lắm! Nên tuy Đạo tui theo bị chê là nông-cạn, ấu-trĩ nhưng tui vẫn thích vì nó hợp với trình-độ của tui.
Nghĩ mà chết cười! Người lập ra Đạo là con một bác thợ mộc. Đại đệ-tử, nối-nghiệp chưởng-môn lại là một bác đánh cá. Mà không phải chỉ ông đệ-tử nầy, đa-số học trò của ông Giê-su thì là dân lao-động. Nên ông Giê-su nầy dạy học trò luôn dùng dụ-ngôn cho dễ hiểu. Tui khoái lắm! Gọn! Giáo-lý của ổng thì gọn hết biết. Để tui nói coi có giáo-lý đạo nào gọn hơn không nha! Ổng dạy:
Điều Răn của ta chì có 2:
- Thứ nhứt: Kính thờ Thượng-đế đã sinh ra vạn-vật.
- Thứ hai: Thương yêu nhau.
Nên đạo Công-giáo là một đạo thực-hành và có tính xã-hội. Bởi không chỉ là tương-quan giữa Chúa với tui, mà còn là tương-quan giữa tui và mọi người chung-quanh nữa!
Đón Giáng-sinh, tui sám-hối. Nhưng sám-hối không phải chỉ nhìn về quá-khứ với những vấp-phạm, mà sám-hối còn nhìn tới tương-lai, với tâm-hồn đổi mới nữa.
Vậy thì đây là cái đạo dạy Sống Hòa-hợp ở Đời. Đơn-giản vậy thôi. Phải không nào?
Thân.
*
 
Last edited:
Sắp nghỉ lễ, rảnh. Gởi hai bác NguSa với Mục-Tử câu chuyện nầy, với câu hỏi:
- Làm sao coi tướng được người nầy?
Câu chuyện dưới đây. Xin mời hai Bác.
Thân.
Từ nhỏ mình đã bị ấn tượng về những người bị bắt tù , mình luôn say sưa đọc về những chiến sĩ cách mạng bị giam ở Hỏa Lò, Sơn La, Côn Đảo, những vị anh hùng như Ngô Gia Tự, Nguyễn Văn Cừ, Trần Phú…đến Hồ Chí Minh. Thật ra hồi mình bé thời bao cấp chỉ có sách về các nhân vật này thôi. Lớn chút mới đọc được Pa Pi Lon, thiên hạ say mê anh chàng Bướm lắm, nhưng mình cũng chả thấy có gì hâm mộ anh chàng này, bá tước Monte của Đuy Ma cũng không ấn tượng lắm vì có lẽ thời kỳ của các nhân vật này khá xa lạ với Việt Nam, sau này có điều kiện mới lùng được sách của Solzenitsyn như cuốn Tầng Đầu Địa Ngục, Một Ngày Trong Đời của I Van , hay cuốn Lửa Yêu Thương, Lửa Ngục Tù của Re Mac, cuốn Chuyện Kể Năm 2000 của Bùi Ngọc Tấn. Mỗi nhật vật đều để lại cho mình những ám ảnh, những ấn tượng. Nhưng có lẽ đoạn văn của Phùng Quán viết lại theo lời kể của Tuân Nguyễn khi Nguyễn ở trong tù là ám ảnh hơn cả’

Nhưng điều may mắn này mới là quan trọng hơn cả: trong mười năm qua, mình đã sống giữa những con người vô cùng phong phú và phức tạp, chất liệu sống vàng ròng cho các nhà văn. Mình chỉ đơn cử với cậu một người…
***
“… Anh ta vào trại trước mình khá lâu, bị trừng phạt vì tội gì, mình không rõ. Người thì bảo anh ta phạm tội hình sự, người lại bảo mắc tội chính trị. Nhưng cả hai tội mình đều thấy khó tin. Anh ta không có dáng dấp của kẻ cướp bóc, sát nhân, và cũng không có phong độ của người làm chính trị. Bộ dạng anh ta ngu ngơ, dở dại dở khùng. Mình có cảm giác anh ta là một khúc củi rều, do một trận lũ cuốn từ một xó rừng nào về, trôi ngang qua trại, bị vướng vào hàng rào của trại rồi mắc kẹt luôn ở đó. Nhìn anh ta, rất khó đoán tuổi, có thể ba mươi, mà cũng có thể năm mươi. Gương mặt anh ta gầy choắt, rúm ró, tàn tạ, như một cái bị cói rách, lăn lóc ở các đống rác. Người anh ta cao lòng khòng, tay chân thắng đuồn đuỗn, đen cháy, chỉ toàn da, gân với xương.
Trên người, tứ thời một mớ giẻ rách thay cho quần áo. Lúc đầu mình cứ tưởng anh ta bị câm vì suốt ngày ít khi thấy anh ta mở miệng dù là chỉ để nhếch mép cười. Thật ra anh ta chỉ là người quá ít lời. Gặp ai trong trại, cả cán bộ quản giáo lẫn phạm nhân, anh ta đều cúi chào cung kính, nhưng không chuyện trò với bất cứ ai. Nhưng không hiểu sao, ở con người anh ta có một cái gì đó làm mình đặc biệt chú ý, cứ muốn làm quen… Nhiều lần mình định bắt chuyện, nhưng anh ta nhìn mình với ánh mắt rất lạ, rồi lảng tránh sau khi đã cúi chào cung kính. Hầu như tất cả các trại viên, kể cả những tay hung dữ nhất, cũng đều thương anh ta. Những trại viên được gia đình tiếp tế người để dành cho anh ta viên kẹo, miếng bánh, người cho điếu thuốc.

Ở trại, anh ta có một đặc quyền không ai tranh được, và cũng không ai muốn tranh. Đó là khâm liệm tù chết. Mỗi lần có tù chết, giám thị trại đều cho gọi “thằng khùng (tên họ đặt cho anh ta) và giao cho việc khâm liệm. Với bất cứ trại viên chết nào, kể cả những trại viên đã từng đánh đập anh ta, anh ta đều khâm liệm chu đáo giống nhau. Anh ta nấu nước lá rừng, tắm rửa cho người chết, kỳ cọ ghét trên cái cơ thể lạnh ngắt cứng queo, với hai bàn tay của người mẹ tắm rửa cho đứa con nhỏ. Lúc tắm rửa, kỳ cọ, miệng anh ta cứ mấp máy nói cái gì đó không ai nghe rõ. Anh ta rút trong túi áo một mẩu lược gãy, chải tóc cho người chết, nếu người chết có tóc. Anh ta chọn bộ áo quần lành lặn nhất của người tù, mặc vào rồi nhẹ nhàng nâng xác đặt vào áo quan được đóng bằng gỗ tạp sơ sài. Anh ta cuộn những bộ áo quần khác thành cái gói vuông vắn, đặt làm gối cho người chết.
Nếu người tù không có áo xống gì, anh ta đẽo gọt một khúc cây làm gối. Khi đã hoàn tất những việc trên, anh ta quỳ xuống bên áo quan, cúi hôn lên trán người tù chết, và bật khóc. Anh ta khóc đau đớn và thống thiết đến nỗi mọi người đều có cảm giác người nằm trong áo quan là anh em máu mủ ruột thịt của anh ta. Với bất cứ người tù nào anh ta cũng khóc như vậy. Một lần giám thị trại gọi anh ta lên:
- Thằng tù chết ấy là cái gì với mày mà mày khóc như cha chết vậy?
Anh ta chấp tay khúm núm thưa:
- Thưa cán bộ, tôi khóc vờ ấy mà. Người chết mà không có tiếng khóc tống tiễn thì vong hồn cứ lẩn quẩn trong trại. Có thể nó tìm cách làm hại cán bộ. Lúc hắn còn sống, cán bộ có thể trừng trị hắn, nhưng đây là vong hồn hắn, cán bộ muốn xích cổ, cũng không xích được.

Thằng khùng nói có lý. Giám thị trại mặc, cho nó muốn khóc bao nhiêu thì khóc. Nhưng mình không tin là anh ta khóc vờ. Lúc khóc, cả gương mặt vàng úa, nhăn nhúm của anh ta chan hòa nước mắt. Cả thân hình gầy guộc của anh ta run rẩy. Mình có cảm giác cả cái mớ giẻ rách khoác trên người anh ta cũng khóc… Trong tiếng khóc và nước mắt của anh ta chan chứa một niềm thương xót khôn tả. Nghe anh ta khóc, cả những trại viên khét tiếng lỳ lợm, chai sạn, “đầu chày, đít thớt, mặt bù ìoong” cũng phải rơm rớm nước. Chỉ có nỗi đau đớn chân thật mới có khả năng xuyên thẳng vào trái tim người.

Mình thường nghĩ ngợi rất nhiều về anh ta. Con người này là ai vậy? Một thằng khùng hay người có mối từ tâm lớn lao của bậc đại hiền?… Thế rồi, một lần, mình và anh ta cùng đi lùa trâu xuống con sông gần trại cho đầm nước. Trời nóng như dội lửa. Bãi sông đầy cát và sỏi bị nóng rang bỏng như than đỏ. Trên bãi sông mọc độc một cây mủng già gốc sần sùi tán lá xác xơ trải một mảng bóng râm bằng chiếc chiếu cá nhân xuống cát và sỏi. Người lính gác ngồi trên bờ sông dốc đứng, ôm súng trú nắng dưới một lùm cây. Anh ta và mình phải ngồi trú nắng dưới gốc cây mủng, canh đàn trâu ngụp lặn dưới sông. Vì mảng bóng râm quá hẹp nên hai người gần sát lưng nhau. Anh ta bỗng lên tiếng trước, hỏi mà đầu không quay lại:
- Anh Tuân này – không rõ anh ta biết tên mình lúc nào – sống ở đây anh thèm cái gì nhất?
- Thèm được đọc sách – mình buột miệng trả lời, và chợt nghĩ, có lẽ anh ta chưa thấy một cuốn sách bao giờ, có thể anh ta cũng không biết đọc biết viết cũng nên.
- Nếu bây giờ có sách thì anh thích đọc ai? – anh ta hỏi.
- Voltaire! – một lần nữa mình lại buột miệng. Và lại nghĩ: Nói với anh ta về Voltaire thì cũng chẳng khác gì nói với gốc cây mủng mà mình đang ngồi dựa lưng. Nhưng nhu cầu được chuyện trò bộc bạch với con người nó cũng lớn như nhu cầu được ăn, được uống… Nhiều lúc chẳng cần biết có ai nghe mình, hiểu mình hay không. Đó chính là tâm trạng của anh công chức nát rượu Marmeladov bất chợt nói to lên những điều tủi hổ nung nấu trong lòng với những người vớ vẩn trong một quán rượu tồi tàn, mà Dostoievsky miêu tả trong Tội ác và trừng phạt.

Anh ta ngồi bó gối, mắt không rời mặt sông loá nắng, hỏi lại:
- Trong các tác phẩm của Voltaire, anh thích nhất tác phẩm nào?
Mình sửng sốt nhìn anh ta, và tự nhiên trong đầu nảy ra một ý nghĩ kỳ lạ: một người nào khác đã ngồi thay vào chỗ anh ta… Mình lại liên tưởng đến một cậu làm việc cùng phòng hồi còn ở Đài phát thanh, tốt nghiệp đại học hẳn hoi, đọc tên nhạc sĩ Chopin (Sôpanh) là Cho Pin.
Mình trả lời anh ta:
- Tôi thích nhất là Candide.
- Anh có thích đọc Candide ngay bây giờ không?
Không đợi mình trả lời, anh ta nói tiếp:
- Không phải đọc mà nghe… Tôi sẽ đọc cho anh nghe ngay bây giờ.

Rồi anh ta cất giọng đều đều đọc nguyên bản Candide. Anh đọc chậm rãi, phát âm chuẩn và hay như mấy cha cố người Pháp, thầy dạy mình ở trường Providence. Mình trân trân nhìn cái miệng rúm ró, răng vàng khè đầy bựa của anh ta như nhìn phép lạ. Còn anh ta, mắt vẫn không rời dòng sông loá nắng, tưởng chừng như anh ta đang đọc thiên truyện Candide nguyên bản được chép lên mặt sông…

Anh đọc đến câu cuối cùng thì kẻng ở trại cũng vang lên từng hồi, báo đến giờ lùa trâu về trại. Người lính gác trên bờ cao nói vọng xuống: “Hai đứa xuống lùa trâu, nhanh lên!”.
- Chúng mình lùa trâu lên bờ đi! – anh nói.
Lội ra đến giữa sông, mình hỏi anh ta:
- Anh là ai vậy?
Anh ta cỡi lên lưng một con trâu, vừa vung roi xua những con trâu khác, trả lời:
- Tôi là cái thanh ngang trên cây thập tự đóng đinh Chúa.
Rồi anh ta tiếp:
- Đừng nói với bất cứ ai chuyện vừa rồi…


Giáp mặt người lính canh, bộ mặt anh ta thay đổi hẳn – ngu ngơ, đần độn như thường ngày. Cuối mùa đông năm đó, anh ta ngã bệnh. Nghe các trại viên kháo nhau mình mới biết.
Thằng chuyên gia khâm liệm e đi tong. Thế là nếu bọn mình ngoẻo, sẽ không còn được khâm liệm tử tế và chẳng có ai khóc tống tiễn vong hồn… – những người tù nói, giọng buồn.

Mình gặp giám thị trại, xin được thăm anh ta.
Giám thị hỏi:
- Trước kia anh có quen biết gì thằng này không?
Mình nói:
- Thưa cán bộ, không. Chúng tôi hay đi lùa trâu với nhau nên quen nhau thôi.

Giám thị đồng ý cho mình đến thăm, có lính đi kèm. Anh ta nằm cách ly trong gian lán dành cho người ốm nặng. Anh ta nằm như dán người xuống sạp nằm, hai hốc mắt sâu trũng, nhắm nghiền, chốc chốc lại lên cơn co giật…

Mình cúi xuống sát người anh ta, gọi hai ba lần, anh ta mới mở mắt, chăm chăm nhìn mình. Trên khoé môi rúm ró như thoáng một nét cười. Nước mắt mình tự nhiên trào ra rơi lã chã xuống mặt anh ta. Anh ta thè luỡi liếm mấy giọt nước mắt rớt trúng vành môi.
Anh ta thều thào nói:
- Tuân ở lại, mình đi đây… Đưa bàn tay đây cho mình…
Anh ta nắm chặt bàn tay mình hồi lâu. Một tay anh ta rờ rầm mớ giẻ rách khoác trên người, lấy ra một viên than củi, được mài tròn nhẵn như viên phấn viết. Với một sức cố gắng phi thường, anh ta dùng viên than viết vào lòng bàn tay mình một chữ nho. Chữ NHẪN.
Viết xong, anh ta hoàn toàn kiệt sức, đánh rớt viên than, và lên cơn co giật.


Người lính canh dẫn mình lên giám thị trại với bàn tay có viết chữ Nhẫn ngửa ra. Người lính canh ngờ rằng đó là một ám hiệu.
Giám thị hỏi:
- Cái hình nguệch ngoạc này có ý nghĩa gì? Anh mà không thành khẩn khai báo, tôi tống cổ anh ngay lập tức vào biệt giam.
Mình nói:
- Thưa cán bộ, thật tình tôi không rõ. Anh ta chỉ nói: tôi vẽ tặng cậu một đạo bùa để xua đuổi bệnh tật và tà khí.
Nghe ra cũng có lý, giám thị trại tha cho mình về lán…

Trong số bao nhiêu nhân vật tù đã được nổi tiếng nhờ tiểu thuyết hóa, người bạn tù của Tuân Nguyễn chỉ là hạt bụi bay qua so với những tác phẩm đồ sộ để đời ấy, mấy ai biết đến nhà thơ Tuân Nguyễn và mấy ai biết hơn về người bạn tù bí ẩn của ông.Người ta ấn tượng cách ông già của Solzennitsyn đầu rụng hết tóc, nhai bánh mỳ bằng lợi hay già Đô của Bùi Ngọc Tấn chết vất vưởng đâu đó trên phố phường Hà Nội khi mãn hạn tù..mình cũng ấn tượng những nhân vật ấy.

Nhưng hình ảnh người tù xấu xí, nghèo khổ đọc nguyên bản Candide bằng tiếng Pháp khiến mình luôn bị ám ảnh trong đầu, Tuân Nguyễn cả Phùng Quán đều về thiên thu, giá như các cụ ấy còn sống mình cũng cất công đi tìm hỏi người mà các cụ nói ấy là ai.

Tình cờ hôm nọ được cho tập hồi ký của Đức Cha Phao Lô Lê Đắc Trọng mới láng máng biết rằng đó là cha Chính Vinh của nhà thờ lớn Hà Nội, vì can tội không cho chính quyền trang trí trước cửa nhà thờ, cha Chính Vinh bị kết án 3 năm tù, nhưng đi tù mãi chả thấy về , tăm hơi biệt tích, hơn 40 năm sau nhờ bạn tù chỉ dẫn, người thân mới biết nơi cha Chinh Vinh chết để chuyển thi hài ngài về. Sau này cất công đi hỏi một vài vị cao tuổi nữa, mới càng khẳng định chính xác là Cha Chính Vinh. Đúng như lời Tuân Nguyễn nói, đây là chất liệu vàng ròng cho các nhà văn. Tuân Nguyễn thì mất rồi, liệu ai tiếp nối ước nguyện của ông để khai thác những chất liệu quý báu như thế này không.

Thưa hai Bác,
Chuyện trên là tui Copy trên mạng.
 
......
- Làm sao coi tướng được người nầy?
Câu chuyện dưới đây. Xin mời hai Bác.
......................................................

Ông bác Sỹ Josef. Ranal người pháp trong đệ nhị thế chiến...làm trong quân y viện..đã tiếp xúc rất nhiều lính pháp chết trận..
Mỗi 1 người lính chết...ông đều ghi chép thẻ bài của họ ( lí lịch ngắn có trong thẻ bài đeo ở cổ mỗi người lính giống như 1 sợi dây chuyền )

Sau đó ông in dấu vân tay . chỉ tay ...địa chỉ gia đình mỗi tử sỹ này...rồi ông cho vào sổ tay ghi chép hằng ngày..

Đệ nhị thế chiến chấm hết...ông về làm ở bịnh viện dân sự...sau mỗi ngày làm việc..ông đều mang cuốn sổ ghi chép các mẫu vân tay . mẫu chỉ tay và thẻ bài của các lính chết trận..ra ngiền ngẫm
Từ các phát hiện ra sự liên hệ giữa vân tay ...và người chết ông lần theo địa chỉ đến từng nhà..hỏi về thân thế...cá tánh và có quá nhiều cá tánh , thân phận trùng hợp...nhau

Rồi ông viết 1 bộ 3 cuốn sách : bàn tay biết nói
Bàn tay mỗi người đều có 3 đường chính Sanh Đạo..trí đạo và tâm đạo

Khi viết về đường trí đạo ( chương trí đạo dài cả chục trang giấy ) nhưng có 1 khúc ông viết như sau :
Người có trí tuệ siêu việt đường trí rất phát triển...nhưng có có điều trùng hợp lạ lùng là : người thông minh siêu việt và người tâm thần đều có đường trí đạo giống nhau

Đức GiêSu khi xưa đi giảng đạo...tự xưng là con đức chuá trời...và kêu gọi mọi người hãy bỏ của cải mà đi theo ta để được sự sống muôn đời... ta là vua... nước của ta không ở trần gian này...

Người Do Thái bắt ngài và đem yêu cầu La Mã Xử tội vì...muốn làm vua ( tội tạo phản)

Quan La Mã Tổng trấn thành Jerusalem là Phi La To sau khi thẩm vấn công khai...tuyên bố rằng : người này vô tội và có dấu hiệu hoang tưởng ( tâm thần)
Nhưng đám đông pharisiêu vẫn gầm thét phải giết ông Giê Su..vì ông ta dám tự xưng là vua Do Thái
Philato bèn gọi hầu cận đem đến cho mình 1 chậu nước.. ông rửa tay với chậu nước , và tuyên bố : nếu máu Giê su phải đổ ra...ta là người vô can...

60 năm sau công nguyên tức là 27 năm sau khi đức Giê Su bị người Do Thái tử hình, người La Mã diệt chủng người Do Thái và đem lý thuyết của Đức Giê su về La Mã rồi phát triển lên Đạo Công Giáo

Ông Thoma 1 đệ tử của Đức Giê Su mang lí thuyết này đi về phương đông và phát triển lên thành Chính Thống Giáo (Nga)

Ở đây ta nhận thấy Người La Mã nhận xét đức Giê Su là người hoang tưởng ( tâm thần) nhưng sau đó lại tôn thờ ngài là... siêu việt ( con thiên chúa)

Thái Tử Tất Đạt Đa...đang làm vua...rồi bỏ ngay ngai vàng đầy quyền lực để ngồi nhịn đói dưới gốc cây bồ đề mà làm thinh không nói...
Sau đó đứng lên đi kêu gọi mọi người hãy...diệt dục
Nếu chuyện đó xảy ra ở thế kỉ này...chỉ cần 1 tỉ phú thôi dám vất hết của cải rồi đi lang thang kêu gọi mọi người hãy diệt dục...thì nhất định...sẽ bị lối xóm gọi là....kẻ đã hóa điên
Cả Đức Giê su Và Thái Tử Tất Đạt Đa đều có dấu hiệu bất thường so với người đương thời...nhưng cả 2 đều được tôn thờ về sau cho đến bây giờ

Thông minh hơn người bình thường quá...đều bị người đương thời xem là tâm thần vì người ta không thể hiểu được họ

Triết gia cổ Hy Lạp nào đó khi xưa vẫn kêu gọi mọi người hãy bỏ đi hết các nhu cầu không cần thiết để sống được sung sướng hơn
Ông lí luận rằng : khi người ta sung sướng quá người ta sẽ thành đau khổ vì không còn có cái gì làm người ta sung sướng hơn
Và khi người ta đau khổ quá ngươi ta sẽ thành sung sướng...vì lúc đó sẽ không còn gì làm mình khổ nữa


Người ta hỏi rằng Thế nào là nhu cầu cần thiết và nhu cầu không cần thiết
Ông trả lời :nhu cầu cần thiết là nếu ta bỏ đi sẽ làm ta đau đớn..thí dụ bàn tay nếu chặt bỏ đi sẽ làm đau đớn cơ thể..như vậy bàn tay là nhu cầu cần thiết phải giữ lại

Ông bỏ nhà bỏ tất cả đi lang thang ở dưới gầm cầu và uống nước ở quảng trường la mã với 1 cái gáo dừa luôn đeo bên mình
Có 1 người thấy ông múc nước bằng gáo dừa để uống bèn nhắc rằng : Bác vẫn giữ bên mình 1 cái không cần thiết...vì người ta có thể uống nước bằng cách vốc bằng 2 tay
Ông nói : phải...cám ơn đúng là cái gáo dừa không còn cần thiết nữa ông vất bỏ và từ đó uống nước bằng 2 tay

Khi quê hương ông gọi ông là kẻ điên và chế giễu....thì bên kia Âu Châu người ta đúc tượng thờ ông như 1 ông thánh sống

Biểu hiện nằm ở đường ...trí đạo quá phát triển

Không biết không có ngiã là không có
Không thưởng thức được..không có ngĩa là dở mà chính là mình không biết thưởng thức

Mấy ngàn năm trước A lịch sơn đại Đế đem quan chinh phục khắp trung đông...đến đâu ông thắng đó.
Ông thắng về quân sự...ông thắng cả về chính trị và quảng bá văn hóa đất nước ông...cho vùng Lưỡng Hà
Có 1 lần 1 nước bé biết mình không thể thắng được trước đạo quân do A Lịch Sơn dẫn đầu..đang đến gần
Nước này bèn biết thư xin thần phục để dân và binh lính không phải chết chóc..và xin mở 1 bữa tiệc chiêu đãi đại quân của A lịch Sơn và trong tiệc này sẽ nạp đầu hàng thư

Đại Đế đi đầu dẫn các tướng lãnh đến bữa tiệc...ông đi đầu và tươi cười đưa tay chào...đoàn người đứng bên đường chào đón..đang reo hò do thái dộ rất thân thiện của Đại Đế .do ông đi đầu nên ông không thấy các tướng lãnh đi phiá sau có thái độ rất tịch trượng vênh váo ngêng ngang của người chiến thắng
Khi ăn tiệc co món gỏi cá là đặc sản...Các tướng lãnh xô các các dĩa gỏi này ra rồi bịt mũi kêu lên tanh tưởi của mọi rợ...

A lịch Sơn...bèn đứng lên dõng dạc khỉển trách : các mi không ăn thì để cho người khác ăn...các ngươi gọi là mọi rợ thì chính mi là mọi rợ trước...vì chỉ có kẻ mọi rợ mới chê người khác là mọi rợ thôi

Rồi ông ngồi xuống ăn ngon lành ( mà thực sự ông không hề biết ăn món này)

do đó ỗng xứng đáng là 1 đại đế
 
Last edited by a moderator:
Quyền được cương

Cháu bon chen bốt một bài.

Trong số những người đến dự cuộc giao lưu trực tuyến
“Phòng khám nam khoa” sáng qua của bác sĩ Nguyễn Thành Như tại toà soạn báo SGTT, có không ít chị em phụ nữ. Tâm sự chung của họ gửi gắm trong câu hỏi sau:
– Bác sĩ ơi! Chồng em nói dạo này thời cuộc làm ảnh “mất hứng” nên phòng the chúng em ngày càng lạnh lẽo, bác sĩ cứu với!
Bác sĩ Như tủm tỉm:
– Nỗi khổ của các chị là nỗi khổ của một “bộ phận không nhỏ”. Trong khi chờ thời cuộc thay đổi, có cách can thiệp như sau...
Vừa giải thích xong ca này thì một phụ nữ khác giơ tay:
– Bác sĩ à, trường hợp chồng em thì ngược lại: ảnh cương suốt ngày, em chịu hết xiết!
Tiếng ồ kinh ngạc lẫn ganh tỵ của đám đông cắt ngang câu hỏi, phải mươi giây sau chị kia mới tiếp tục được:
– Dạo này chồng em cứ nghe chuyện “nhạy cảm” là bức xúc, căng thẳng, nhiều lúc em sợ ảnh nổ bất tử. Vậy mà em khuyên can: “Anh ơi, sức anh có bao lăm, bớt cương đi” thì ảnh càng bức xúc: “Bộ yếu thì không có quyền cương à?” Bác sĩ thấy bệnh chồng em lạ chưa? Nên hồi nãy đi qua đây thấy cái hình hoạ sĩ Còm vẽ bác sĩ tròng dây kéo cho nòng đại bác chúc xuống ở ngoài cửa phòng giao lưu, em mừng quá: đây đúng là nơi chữa bệnh chồng mình!
Bác sĩ ngẩn người:
– Chắc chị có điều chi nhầm lẫn, vì đây là buổi giao lưu về bệnh dành cho nam giới.
Chị kia tẽn tò:
– “Nam khoa” là khoa trị bệnh nam giới? Thế mà em tưởng...
– Tưởng làm sao?
– Tưởng “phòng khám nam khoa” là nơi trị bệnh cho người... nước Nam!
NGƯỜI GIÀ CHUYỆN
Nguồn:
http://sgtt.vn/Goc-nhin/Phiem-va-biem/173303/Quyen-duoc-cuong.html​

 
Không ai xem tướng của những vị tu sĩ đạo cao đức trọng cả lão ma đầu à. Đó là vì cái câu " Đức năng thắng số". Những vị tu sĩ đã chọn đường đạo, dùng cái đức để thay đổi thiên mệnh thì ắt nhiên ít nhiều sẽ phá tướng. Vì vậy gần như không một vị cao nhơn bói toán nào dám cả gan xem tướng của những bậc chơn tu. Thấy vậy nhưng không phải vậy...

Coi tướng gieo quẻ theo tiền nhân khó lắm vì học thuật quá cao siêu. Để Ngu mỗ bày cho lão ma đầu gieo quẻ đơn giản hơn á.

TÂN "TỬ-VI ĐẨU-SỐ" Bói Quẻ theo Phương-Pháp Khoa-Học <var id="yiv2029448962yui-ie-cursor"></var>
"Nói có sách , Mách có chứng"

[SIZE=+0][FONT=bookman old style, new york, times, serif] - Người tuổi Sửu hợp với người tuổi Ngọ, theo quẻ… "đầu trâu mặt ngựa
[/SIZE][SIZE=+0][FONT=bookman old style, new york, times, serif][SIZE=+0][SIZE=+0][SIZE=+0]".
Người hai tuổi này mà cưới nhau chắc-chắn sẽ thành-công, tấn-tới nếu cả hai vợ-chồng cùng hợp-tác kinh-doanh trong lãnh-vực… xã-hội đen , đâm thuê chém mướn , cho vay nặng lãi , hoặc bảo-kê các quán "Bia Ôm" . Hai tuổi này thường đông con nhưng mặt-mũi không được dễ-thương lắm vì trông giống hệt 1 lũ "lâu-la" ! Tuy không học thật giỏi nhưng cũng được vài đứa tốt-nghiệp Trường "Phục-Hồi Nhơn-Phẩm" hoặc "Trung-Tâm Cai-Nghiện" . Nhờ "Lâu-La" đông nên có đứa này "thăm-nuôi" đứa kia , không phiền Bố-Mẹ trong công-việc kinh-doanh ... phi-pháp !
[/SIZE][/SIZE][/FONT][/SIZE][/SIZE]

[FONT=bookman old style, new york, times, serif][/FONT]
[FONT=bookman old style, new york, times, serif] - Người tuổi Mão hợp với người tuổi Dậu, theo quẻ "mèo mả gà đồng[/FONT][FONT=bookman old style, new york, times, serif]".
Người hai tuổi này đi với nhau chắc-chắn có một tình-yêu mãnh-liệt và hoang-dại , một mối-tình lãng-mạn ở những nơi vắng-vẻ như đồng-quê hoặc ban-đêm ở ... nghĩa-địa ! Hai tuổi này nếu sanh được con trai nên đặt 1 thằng tên Quan , 1 thằng tên Tài ! Gái thì đặt cái Nghĩa , cái Trang ... sau này chúng sẽ giàu nhờ có rất nhiều tiền "vàng mã" ! [/FONT]


- Người tuổi Thìn hợp với người tuổi Dậu, theo quẻ "rồng bay phượng múa"
(vì Phượng ko thuộc 12 con giáp nên lấy Gà là con vật gần giống Phượng nhất để thay-thế).
Người hai tuổi này cưới nhau chắc-chắn tình-yêu, tiền-tài, sự-nghiệp sẽ đẹp-đẽ, thăng-hoa . Sanh con đầy-đủ hoa-tay hoa-chưn ... không làm Vũ-công cũng làm Họa-sĩ (Nếu ko được Họa-sĩ thì ít ra cũng "Họa-công" = Thợ Vẽ , "Vẽ-vời" rất hay ... Nếu làm nghề "Thày Cúng" đám-ma sẽ "Vẽ" chủ-nhà ko đẹp ko "ăn-tiền" !)


[FONT=bookman old style, new york, times, serif]- Người tuổi Tỵ rất khắc với người tuổi Dậu, theo quẻ "cõng rắn cắn gà nhà[/FONT][FONT=bookman old style, new york, times, serif]".
Nếu 2 người này cưới nhau về thế nào người tuổi Gà cũng bị người tuổi Rắn cắn "te tua" như ... "cái mền" ! Không l
[/FONT]
[FONT=bookman old style, new york, times, serif]oại-trừ khả-năng vụ án xảy-ra trong lúc yêu-đương bối-rối , "lãng-mạn wá-chớn" ... "bị-cáo" cắn nhầm "bị-hại" phải đi ... "cấp-cứu" ! [/FONT]

[FONT=bookman old style, new york, times, serif]Tuy-nhiên có-thể hóa-giải bằng cách trước khi kết-hôn hãy lo thủ sẵn "Bôm mát" INSECT BITES (Thuốc chống vết-cắn côn-trùng" , Xài đỡ cũng OK , vì ko có thuốc chống "Người Cắn" !) . Trễ nhất cũng phải mua trước giờ "Lên Xe Bông" vì nguy-cơ bị Cắn ngay trong đêm Tân-Hun là rất cao ! . Hoặc nếu người tuổi Tỵ bị Móm , nguyên "hàng Tiền-đạo" của hàm răng ko còn cái nào , thì 2 tuổi này lại rất [/FONT][FONT=bookman old style, new york, times, serif]hạp , bởi-vì "Yêu nhau lắm nhưng Cắn nhau KHÔNG đau" ! [/FONT][FONT=bookman old style, new york, times, serif]Bảo-đảm sẽ sống chung tới "Tóc bạc Răng long" , "Đầu hói Miệng móm" ! [/FONT]

- Người tuổi Tý khắc với người tuổi Sửu hoặc Ngọ, theo quẻ… "đầu voi đuôi chuột"
(vì voi cũng không có trong 12 con giáp nên lấy Ngựa
và Trâu, hai con giáp to gần bằng Voi nhất có-thể thay-thế)
Người mấy tuổi này cưới nhau thì chỉ được tiền-vận suông-
sẻ, tốt-đẹp, còn hậu-vận thì bết-bát , khó giữ ! Không loại-trừ khả-năng gia-đình phá-sản, vợ-chồng ly-di, con-cái nghiện-ngập ... Mấy tuổi này sanh con ko đến nỗi xấu-xí , có điều thường bay bị ... "Đầu to , Đít bé" , "Vai ngang , Mông lép" ... càng nuôi ngó kỹ lại càng thấy giống hình chữ V !


[FONT=bookman old style, new york, times, serif]- Người tuổi Mùi hợp với người tuổi Tuất theo quẻ "treo đầu dê, bán thịt chó[/FONT][FONT=bookman old style, new york, times, serif][FONT=bookman old style, new york, times, serif]".
Hai vợ-chồng tuổi này lấy nhau chắn-chắc sẽ làm-ăn phát-đạt, thịnh-vượng, đặc-biệt là trong lĩnh-vực buôn-gian bán-lận, lừa-đảo ... nếu kinh-doanh hàng-gỉả hàng-nhái của Ba-tàu thì càng mau giàu hơn nữa ! Nhưng thế-nào cũng bị quả-báo là mắc bệnh "Ghẻ Tàu" ... có khi còn "bị vồ" mời "dzô hộp" ngồi ... "bóc lịch" suốt đời !
[/FONT][/FONT]


- Người tuổi Tuất dễ khắc với người tuổi Dậu, theo quẻ "Chó cậy gần nhà, Gà cậy gần chuồng"
Hai vợ-chồng tuổi này chẳng chóng thì chầy sẽ xung-khắc, chia-rẽ nội-ngoại, dẫn tới ly-di, chia con, chia nhà. Hai tuổi này thường
ko đông con lắm , vì ngay đêm tân-hôn đã mạnh ai nấy ngủ 1 phòng ! Người nào "mò" wa phòng người kia rất dễ bị "oánh" ... nên riết rùi cũng phát ... chán !

[FONT=bookman old style, new york, times, serif]Đây là 1 mối-tình rất ... "không lãng-mạn" ! Nếu cứ cố-[/FONT][FONT=bookman old style, new york, times, serif]tình sống với nhau thì ko thể là "Trăm năm hạnh-phúc" chỉ [/FONT][FONT=bookman old style, new york, times, serif]là "Trăm năm cầm-cự" mà thui ![/FONT]

- Người tuổi Dậu, ngoài hợp với tuổi Mão và tuổi Thìn như đã nói ở trên, còn hợp với người tuổi Hợi, theo quẻ "đầu gà má lợn".
[FONT=bookman old style, new york, times, serif]Người hai tuổi này cưới nhau nhiều khả-năng thành-công trong lãnh-vực kinh-doanh nhỏ ,
đặc-biệt là kinh-doanh
[/FONT]
[FONT=bookman old style, new york, times, serif]nhà-hàng, đồ nhậu bình-dân . Hai tuổi này đễ được "con cháu đầy đàn" , chỉ "phiền" cái là , đa-số Cầm "bạnh" như Củ-Sâm-Hàn-Quốc , Má "bánh-đúc" , nhưng cái Đầu thì lại "nhọn hoắc" ... giống hình chữ V ngược ![/FONT]


[FONT=bookman old style, new york, times, serif]- Người tuổi Sửu , tuổi Ngọ hợp [/FONT][FONT=bookman old style, new york, times, serif]với người cùng tuổi, theo quẻ "ngưu tầm ngưu, mã tầm[/FONT][FONT=bookman old style, new york, times, serif]".
Những người này cưới nhau sinh con đẻ cái đảm-bảo chắc-chắn sẽ… "thuần-chủng" ! Nhưng nếu có tiền cho chúng đi du-học nước ngoài th
[/FONT]
[FONT=bookman old style, new york, times, serif]ì ko nên cho đi Mỹ , vì Mỹ là "Hợp-Chủng Quốc" sẽ khó thích-hợp với chúng ! Nên cho đi Iran , Iraq tốt hơn , Hay Đông Timor cũng OK ! [/FONT]

[FONT=bookman old style, new york, times, serif]<var id="yiv2029448962yui-ie-cursor"></var>Đặc-biệt các Cụ VK hai cái tuổi này "bon-chen" [/FONT][FONT=bookman old style, new york, times, serif]về VN lấy vợ cùng tuổi nhưng thua đúng 2 hoặc 3 con giáp , cũng được thui , vẫn rất "hạp tuổi" như thường nếu cứ ở VN ! Nhưng nếu "rước" qua là kể như "tiêu-diêu miền cực-nhọc" ! Sự "hạp tuổi" ở VN sẽ biến thành "khắc tuổi" ở nước ngoài ! ... C<var id="yiv2029448962yui-ie-cursor"></var>ứ theo như Quẻ Bói này thì chỉ "cầm-cự" được khoảng 2 tới 3 năm sẽ phải ... chia-tay ... "Em-đi-đướng-Em" , "Cụ-đi-đường-Cụ" ... có-thể là vô "hòm" luôn ! Lời "Thánh" nói , Cac'<var id="yiv2029448962yui-ie-cursor"></var> "Cụ" nên<var id="yiv2029448962yui-ie-cursor"></var> thận-trọng ! Go<var id="yiv2029448962yui-ie-cursor"></var>od Luck ![/FONT]:approve:[FONT=bookman old style, new york, times, serif]
[/FONT]



[/FONT]



 
Last edited by a moderator:



người Việt chuẩn bị cho 'Ngày tận thế'Thứ tư, 19/12/2012 10:06


Nhậu vì 'Ngày tận thế', hay các bà vợ bảo chồng 'Ngày tận thế' sắp đến nên đi đâu cũng về cho sớm với vợ con...

Tại TP HCM, có một nhóm người tin vào 'Ngày tận thế' nên họ đã bắt đầu chuẩn bị các loại hạt giống để chờ ngày này từ nhiều năm trước.
Theo họ 'Ngày tận thế' là một trận đại hồng thủy, một số người chuẩn bị kỹ có thể sống sót tới một đảo hoang hay một miền đất nào đó nên cần có hạt giống để gieo trồng khi đến miền đất mới.
Hiện nay có một số trung tâm và cá nhân cho rằng họ có thể dạy mọi người 'thần thông' (là sức mạnh tâm linh, đạt được do thiền định hay do tu tập một pháp môn nào đó) để vượt qua được nỗi sợ hãi trong 'Ngày tận thế'.

Nắm được tâm lý của nhiều người ham có 'thần thông', đắc được thiền định mà nhiều trung tâm đã mở những lớp học thiền.
Đắc được gì không thì chưa biết nhưng luyện tập quá sức và không đúng cách nên đã có nhiều người đang bình thường trở thành tẩu hỏa nhập ma, đầu óc hoang tưởng phải vào bệnh viện tâm thần.
092812_ngaytanthe.jpg
Hình minh họa
Cũng trong những ngày này, một số quán nhậu xuất hiện nhiều nhóm bạn rủ nhau đến uống vì 'Ngày tận thế'. Họ 'chém gió' nhiều hơn và cũng uống nhiều hơn.
Tuy nhiên, nếu không biết tiết chế thì nhiều người phải chết trước 'Ngày tận thế' vì bệnh tật cũng như tai nạn vì rượu chưa biết chừng.
Một số thông tin cho thấy nhiều học sinh tin rằng có 'Ngày tận thế' mà rủ nhau bỏ học hoặc đâm chém nhau.

Trong khi đó, các 'sao' Việt cũng đua nhau phát ngôn về 'Ngày tận thế'.
Có những kịch bản rất thiết thực, đầy ý nghĩa nhưng không thiếu những phát ngôn mang tính… siêu thực như 'cướp nhà băng chia cho người nghèo nếu có ngày tận thế' của một cô Hoa hậu.
Nếu ngày tận thế là có thực không nhẽ những người nghèo được sống hay sao mà đi cướp nhà băng để chia cho họ?

Một nhà xã hội học cho biết, 'Ngày tận thế' có hay không là tùy thuộc vào thái độ sống của mỗi người.
Nếu biết sống trọn vẹn trong hiện tại, sống tận hiến hết mình vì bản thân và những người xung quanh thì đâu có gì phải lo dù ngày này có đến.
Ngược lại nếu sống trong nỗi lo âu và bất cẩn, không biết quý trọng giờ phút hiện tại thì 'Ngày tận thế'có thể đến với chúng ta bất cứ lúc nào.
> Hầm hạng sang chống ngày tận thế ở Mỹ
> Truyền hình trực tiếp 'Ngày tận thế'
> Nở rộ lừa đảo mượn 'ngày tận thế' ở Trung Quốc


--------

Kịch bản ngày tận thế :

[video=youtube_share;9vfLFbE7PbA]http://youtu.be/9vfLFbE7PbA[/video]
 
Last edited by a moderator:
Ha ha! bác NguSa gởi cho nguyên một Cẩm-nang, sát thực-tế, dễ học. Tui phải đọc lại, để còn ứng-dụng cho mình nữa chứ! Để coi nha, tui tuổi Dậu:

- Mèo mã, Gà đồng: Cái nầy hay! Tui đã từng hò-hẹn mấy chỗ đồng không mông quạnh, mấy chỗ "nhân-gian không thể biết". Vậy mà rồi Má cổ cũng biết, nên bể!
- Rồng bay, Phụng múa: Đúng! Tướng số nói chỗ nầy hay! Nhưng mà sao, tui múa đã tới bến rồi mà con Rồng nó cứ "lộn" hoài? Không bỏ chạy thì có mà thành cái mền rách!
- Cõng Rắn cắn Gà nhà: Sao mấy ông thầy tướng mà cũng biết cái vụ nầy nữa cà! Nửa đêm đang ngủ cà rù, mà tui nghe mùi Rắn Hổ-hành là hồn-phi, phách-tán ngay! Mấy cô nầy phải tránh xa!
- Chó cậy gần nhà, Gà cậy gần chuồng: Cái nầy mấy Thầy nói sai! Tui ở tại chuồng tui đó chứ, mà "Chó" cứ ra vô như chỗ không người. Vừa mới giương cánh phản-đối là bị nó táp cho 1 phát! May nhờ ngón Kê-trảo-công của tui đã đến mức thượng-thừa, nên quào đại lại 1 phát, rồi cà-tọt, cà-tọt... chạy tuốt mới bảo-tồn được tính mạng. Chó là Gà không chơi!
- Đầu Gà, má Lợn: Ê! Mấy Thầy không được nói cái vụ tận-thế à nha! Tui nhứt định không giao-du với con cháu của Lão Trư!

Để tính lại coi: Tui kỵ mấy tuổi Hợi, Tuất, Thìn, Tỵ... chỉ có bi nhiêu thôi trong 12 con giáp. Khỏe re!
Cám ơn bác NguSa nha! Mời bác vô quán Phan-Tùng, kêu 2 ly cà-phê, 1 ly cho bác, một ly cho bác Mục. Tiền thì ai trả cũng được, tui ít khi... để ý! Hì hì...
Thân.
 
[h=1]Tình cha[/h]
Anh hẹn chị ra quán cà phê trước nhà ga chính của thành phố Bremen. Câu đầu tiên khi gặp anh, chị nói trong sự cáu gắt, “Ông lại bán xe rồi hay sao mà lại đi tàu lên đây?”.
Anh cúi đầu trả lời lý nhí trong sự hổ thẹn, “Ừ, bán rồi, vì cũng không có nhu cầu lắm”. Chị sầm mặt xuống: “Ông lúc nào cũng vậy, suốt đời không thể ngóc đầu lên được, hẹn tôi ra đây có chuyện gì vậy?”
Khó khăn lắm anh mới có thể nói với chị điều anh muốn nhờ cậy. Chị cũng khó khăn lắm mới có thể trả lời từ chối anh, “Nhưng mà gia đình tôi đang yên lành, nếu đưa con bé về e rằng sẽ chẳng còn được bình yên”.
Anh năn nỉ, “nhưng thật sự là anh rất bối rối, con bé đã đến tuổi dậy thì, anh là đàn ông, không thể gần gũi và dạy dỗ chu đáo cho nó được, anh chưa bao giờ cầu xin em điều gì, chỉ lần này thôi, chỉ nửa năm hay vài ba tháng cũng được, em là phụ nữ, em gần nó, em hướng dẫn và khuyên bảo nó trong một thời gian, để nó tập làm quen với cuộc sống của một thiếu nữ, sau đó anh lại đón nó về”.
Chị thở dài, “Ông lúc nào cũng mang xui xẻo đến cho tôi, thôi được rồi, ông về đi, để tôi về bàn lại với chồng tôi đã, có gì tôi sẽ gọi điện thông báo cho ông sau”. Anh nhìn chị với ánh mắt đầy hàm ơn. Anh đứng dậy, đầu cúi xuống như có lỗi tiễn chị ra xe rồi thở dài, lùi lũi bước vào nhà ga đáp tàu trở lại Hamburg.
Anh và chị trước kia là vợ chồng. Họ yêu nhau từ hồi còn học phổ thông. Anh đi lao động xuất khẩu ở Đông Đức. Chị theo học Đại học Sư phạm Hà Nội 1. Ngày bức tường Berlin sụp đổ, anh chạy sang phía Tây xin tị nạn. Chị tốt nghiệp Đại học và về làm giáo viên cấp 3 huyện Thái Thụy, Thái Bình. Họ vẫn liên lạc và chờ đợi nhau.
Khi đã có giấy tờ cư trú hợp lệ, anh về làm đám cưới với chị, rồi làm thủ tục đón chị sang Đức.
Vừa sang Đức, thấy bạn bè anh ai cũng thành đạt. Đa số ai cũng có nhà hàng, hay cửa tiệm buôn bán. Chỉ có anh là vẫn còn đi làm phụ bếp thuê cho người ta. Chị trách anh vô dụng. Anh không nói gì, chỉ hơi buồn vì chị không hiểu, để có đủ tiền bạc và điều kiện lo thủ tục cho chị sang được đây, anh đã vất vả tiết kiệm mấy năm trời mới được. Nên không dám mạo hiểm ra làm ăn.
“Đồ cù lần, đồ đàn ông vô dụng…”, đó là câu nói của miệng chị dành cho anh, sau khi anh và chị có bé Hương.
Bé Hương sinh thiếu tháng, phải nuôi lồng kính đến hơn nữa năm mới được về nhà. Khi bác sĩ thông báo cho vợ chồng anh biết bé Hương bị thiểu năng bẩm sinh. Giông tố bắt đầu thực sự nổi lên từ đó. Chị trách anh, đến một đứa con cũng không làm cho ra hồn, thì hỏi làm được gì chứ. Anh ngậm đắng nuốt cay nhận lỗi về mình và dồn hết tình thương cho đứa con gái xấu số.
Bé Hương được 3 tuổi, chị muốn ly dị với anh. Chị nói, ông buông tha cho tôi, sống với ông đời tôi coi như tàn. Anh đồng ý, vì anh biết chị nói đúng. Anh là người chậm chạp, không có chủ kiến và không có chí tiến thân, sống an phận thủ thường. Nếu cứ rằng buộc sẽ làm khổ chị.
Bé Hương 3 tuổi mà chưa biết nói. Chị cũng rất thương con, nhưng vì bận bịu làm ăn nên việc chăm sóc con bé hầu hết là do anh làm. Vì vậy mà con bé quấn quít bố hơn mẹ.
Biết vậy nên chị cũng rất yên tâm và nhẹ nhõm nhường quyền nuôi dưỡng con bé cho anh khi làm thủ tục ly hôn.
Ly dị được gần 1 năm thì chị tái giá. Chị sinh thêm một đứa con trai với người chồng mới.
Thành phố Bremen là 1 thành phố nhỏ. Người Việt ở đó hầu như đều biết nhau. Chị cảm thấy khó chịu khi thỉnh thoảng bắt gặp cha con anh đi mua sắm trên phố. Chị gặp anh và nói với anh điều đó. Anh biết ý chị nên chuyển về Hamburg sinh sống.
Chị không phải là người vô tâm, nên thỉnh thoảng vẫn gửi tiền nuôi dưỡng con cho anh. Trong những dịp năm mới hay noel, chị cũng có quà riêng cho con bé, nhiều năm, nếu có thời gian, chị còn đến trực tiếp tặng quà cho con bé trước ngày lễ giáng sinh nữa.
Thấm thoát đó mà giờ đây con bé đã sắp trở thành một thiếu nữ. Tuy chị không biết cụ thể thế nào. Nhưng chị biết dù con bé lớn lên trong tật nguyền hẩm hiu, nhưng anh rất thương nó. Chị cũng biết con bé gặp vấn đề trong giao tiếp, phải đi học trường khuyết tật. Nhưng con bé rất ngoan. Anh cũng không phải vất vả vì nó nhiều. Nó bị bệnh thiểu năng, trí tuệ hạn chế, phát âm khó khăn. Tuy vậy nó vẫn biết tự chăm sóc mình trong sinh hoạt cá nhân. Thậm chí nó còn biết giúp anh một số công việc lặt vặt trong nhà.
Chồng chị đã đồng ý cho chị đón con bé về tạm sống với chị vài tháng, với điều kiện trong thời gian con bé về sống chung với vợ chồng chị, anh không được ghé thăm. Chị cũng muốn thế, vì chị cảm thấy hổ thẹn khi phải tiếp xúc với vẻ mặt đần đần dài dại của anh.
Vợ chồng chị đã mua nhà. Nhà rộng, nên con bé được ở riêng một phòng. Chị đã xin cho con bé theo học tạm thời ở một trường khuyết tật ở gần nhà. Con bé tự đi đến trường và tự về được.
Đi học về, nó cứ thui thủi một mình trong phòng. Đứa em trai cùng mẹ của nó, mẹ nó, và bố dượng nó rất ít khi quan tâm đến nó. Niềm vui duy nhất của nó là chờ điện thoại của bố. Nó phát âm không chuẩn và nói rất khó khăn, nên hầu như nó chỉ nghe bố nói chuyện. Bố dặn dò nó rất nhiều và thỉnh thoảng còn hát cho nó nghe.
Em trai nó học thêm Piano, nên nhà mẹ nó có cái đàn Piano rất đẹp để ở phòng khách. Có lần nó sờ và bấm bấm vài nốt. Mẹ mắng nó không được phá đàn của em. Nên từ đó nó không dám đụng đến nữa. Có hôm anh gọi điện thoại cho nó, nó nghèn nghẹn nói lỏm bỏm “… đàn… klavia… con muốn…” Anh thở dài và hát cho nó nghe.
Tháng đầu, hầu như ngày nào anh cũng gọi điện thoại cho nó. Rồi thưa dần, thưa dần. Cho đến một ngày anh không gọi cho nó nữa. Sau một tuần đăng đẳng không nghe anh gọi điện thoại. Con bé bỏ ăn và nằm bẹp ở nhà không đi học. Chị không biết gì cứ mắng nó dở chứng.
Một đêm, chị bỗng bật choàng dậy khi nghe tiếng đàn Piano vang lên. Chị chạy ra phòng khách, thấy con bé đang ngồi đánh đàn say sưa. Nó vừa đánh vừa hát thì thầm trong miệng. Chị cứ há hốc mồm ra kinh ngạc. Chị không thể tưởng tượng nổi là con bé chơi Piano điêu luyện như vậy. Chị chợt nhớ ra, đã có lần anh nói với chị, con bé ở trường khuyết tật có học đàn Piano, cô giáo khen con bé có năng khiếu. Lần đó chị tưởng anh kể chuyện lấy lòng chị nên chị không quan tâm
Chị đến gần sau lưng nó, và lặng lẽ ngắm nhìn nó đánh đàn. Chị cúi xuống và lắng nghe con bé hát thầm thì cái gì. Chị sởn cả da gà, khi chị nghe con bé hát rõ ràng từng tiếng một, lại là hát bằng tiếng Việt hẳn hoi: “…Nhớ những năm xa xưa ngày cha đã già với bao sầu lo…sống với cha êm như làn mây trắng…nhớ đến năm xưa còn bé, đêm đêm về cha hôn chúng con….với tháng năm nhanh tựa gió..ôi cha già đi cha biết không…”.
Chị vòng tay ra trước cổ nó và nhẹ níu, ôm nó vào lòng. Lần đầu tiên chị ôm nó âu yếm như vậy. Chị thấy tay mình âm ấm. Nó ngừng đàn đưa tay lên ôm riết tay mẹ vào lòng ngực. Nó khóc. Chị xoay vai nó lại, nhìn vào khuôn mặt đầm đìa nước mắt của nó hỏi, con sao vậy hả con yêu của mẹ. Nó ngước nhìn mẹ nó rất trìu mến rồi chìa cho mẹ nó một tờ giấy giấy khổ A4 đã gần như nhàu nát.
Chị cầm tờ giấy và chăm chú đọc, rồi thở hắt ra nhìn nó hỏi “Con biết bố con bị ung thư lâu chưa?” Nó chìa 4 ngón tay ra trước mặt mẹ. Chị hỏi, 4 tháng rồi hả. Nó gật đầu. Chị nhìn chăm chăm vào tờ giấy, và từ từ ngồi thụp xuống nền nhà, rũ rượi thở dài.
Con bé hốt hoảng đến bên mẹ, ôm mẹ vào lòng, vuốt mặt mẹ, rồi vừa ấp úng nói vừa ra hiệu cho mẹ. Đại ý là nó diễn đạt rằng: -”Bố lên ở trên Thiên Đường rồi, mẹ yên tâm. Con đã xin vào nội trú ở trường dưới Hamburg, ngày mai con sẽ về dưới đó, con không ở lại đây lâu để làm phiền mẹ và em đâu, con về ở tạm đây là vì bố muốn thế, bố muốn mình ra được nhẹ nhàng và yên tâm là có mẹ ở bên con…
Chị cũng ôm nó vào lòng, vỗ vỗ vào vai nó và nói, con gái ngoan của mẹ, ngày mai nếu mẹ sắp xếp được công việc, mẹ sẽ đưa con về Hamburg …
Tôi nghe người ta kể chuyện lại chuyện đó, khi đi dự một cuộc biểu diễn nghệ thuật của học sinh khuyết tật và khiếm thị.
Khi thấy em gái đệm đàn piano cho dàn đồng ca, cứ khăng khăng đòi phải đàn và hát bài hát “Người Cha Yêu Dấu” bằng tiếng Việt trước, sau đó mới chịu đệm đàn cho dàn đồng ca tiếng Đức. Quá kinh ngạc nên tôi cứ gạn hỏi mãi người trong ban tổ chức. Cuối cùng họ đã kể cho tôi nghe câu chuyện như vậy.
(Nhận được qua e-mail, không rõ tác giả)

Cảm ơn .câu chuyện rất cảm động,làm người sao cư xử tệ thế...tôi cũng thích bài hát này bằng tiếng việt,dù tôi ko may mắn được sống cùng cha mình.tôi cũng đang cố gắng làm cha thật tốt chào.
 
SẮC SẮC, KHÔNG KHÔNG !
...từ bài Bát Nhã. Sự đời ! Trăm vạn chuyện khác nhau đến mấy, rốt cuộc rồi cũng chữ ấy mà thôi. Không Ngộ thì Mê, không Mê thì Ngộ, nói gì? có gì nữa để nói? ....Chú khắc suốt ngày và suốt đêm. Khắc rách da tay, khắc kiệt sức. Khắc : sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc, thọ tưởng hành thức diệc phục như thị... Bài kinh Bát nhã.


Mời xem phim
Xuân hạ thu đông , rồi xuân


leftimage.jpg
Tuần vừa qua, một cuốn phim Ðại Hàn ra mắt khán giả Paris, được khen ngợi. Báo Mỹ cũng khen. Tên của phim là : Xuân Hạ Thu Ðông ... rồi Xuân (1). Không phải là người sành điện ảnh, đọc tên phim là tôi muốn đi xem ngay vì nên thơ quá. Xuân hạ thu đông thì chẳng có gì lạ, nhưng xuân hạ thu đông ... rồi xuân thì cái duyên đã phát tiết ra ngoài. Huống hồ, ở trong phim, xuân rồi lại xuân trên một ngôi chùa nhỏ ... trên một ngôi chùa nhỏ chênh vênh giữa núi non.

Thơ và đẹp là chuyện của phim. Bằng im lặng, cảnh nói thay người, vì người chẳng có gì để nói. Chẳng có gì để nói giữa ông thầy và chú tiểu. Chẳng có gì để nói giữa chú tiểu và cô gái. Giữa ba nhân vật là một chiếc thuyền, có khi có người chèo, có khi không có người chèo vẫn trôi, trôi từ bờ bên này qua bờ bên kia, từ thế giới bên ngoài không hiện diện qua thế giới ngôi chùa không ai cần nói với ai. Chiếc thuyền là nét động duy nhất giữa tĩnh lặng mênh mông, là vùng vẫy giữa lắng đọng. Nói gì ? Có gì để nói ? Nói gì giữa chú tiểu và cô gái ? Chuyện xảy ra là chuyện tất nhiên, bình thường như xuân hạ thu đông, bốn mùa trôi qua trên mái chùa.

Mới hôm qua, mùa xuân, chú tiểu hãy còn là búp măng, con ai đem bỏ chùa này, ngây thơ đùa nghịch với cóc nhái, rắn rít. Hôm nay, khi cô gái đến, tuổi đời của chú đã bắt đầu vào hạ. Ðất trời ấm mùa hạ, cô gái ấm mùa hạ, chú cũng vậy. Chuyện gì xảy ra tất phải xảy ra, chú tiểu hay ai cũng vậy thôi, đất đá cũng biết, nói gì, có gì để nói, bình thường như xuân hạ thu đông, bốn mùa trôi qua.

springsum.jpg


Cô gái đến chùa để ở lại chữa bệnh. Khi đến, cô u sầu. Dưới mặt trời mùa hạ, trời ấm, người ấm, cô rạng rỡ. Ông sư nói: “Cô lành bệnh rồi đấy, về nhà được rồi”. Ông biết hết, nhưng thản nhiên, như không, có gì để nói? Cô gái xuống thuyền, thuyền đưa cô từ bờ bên này của núi non qua bờ bên kia của một thế giới chẳng ai biết. Ðó là thế giới chú tiểu sắp bước vào, bởi vì, sau khi cô gái đi, chú tiểu cũng khăn gói rời chùa, làm con bướm đuổi theo mùi hương. Trong khăn gói, chú cẩn thận nhét thêm tượng Phật. Nằm trong gói, chắc tượng Phật nói thầm : “chú tiểu ơi, chẳng sao đâu, chú đi như thế cũng tốt như ở, bình thường thôi, xuân hạ thu đông”.

06-spring-summer.jpg
Chùa hai người, bây giờ chỉ còn một. Một ông sư già và một con mèo con. Mặt trời dịu lại, mùa hạ cũng ra đi. Mùa thu dần đến, núi non vàng rực một màu.

Nhưng chẳng mấy chốc, chú tiểu trở về. Chú về với râu, với tóc, với tướng mạo hiên ngang của thanh niên đô thị. Và với con dao ! Con dao mà chú đã thọc vào cổ của người yêu bây giờ là người phản. Chú vào chùa, giận dữ bốc cháy người chú. Trong tay chú, con dao như muốn thọc vào cả núi non. Thản nhiên như không, ông sư càng già càng ít nói. Chỉ nói : “ Chú khổ thì người khác cũng khổ ”. Nghe chừng như chuyện khổ cũng tất nhiên, nói gì, có gì để nói, chỉ là xuân hạ thu đông.

Cũng tất nhiên, cảnh sát đến chùa bắt kẻ sát nhân. Cảnh sát có súng. Sát nhân có dao. Dao ấy hươi lên trước súng. Máu sẽ đổ chăng ? Ðổ trên sân chùa ? Ðổ trên lưng ông già đang lom khom nắn nót viết chữ trên sân ? Ðâu có ! Không rời bút, cũng chẳng nhìn lên, ông bảo chàng thanh niên buông dao. Dao buông xuống thì dao hết là dao. Dao hết là dao thì súng cũng hết là súng, cảnh sát hết cảnh sát, thanh niên hết râu tóc. Chỉ còn chữ viết trên sân. Với con dao đã buông, ông bảo chú thanh niên tiếp tục khắc chữ trên nền sân, khắc theo chữ ông viết. Chú khắc suốt ngày và suốt đêm. Khắc rách da tay, khắc kiệt sức. Khắc : sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc, thọ tưởng hành thức diệc phục như thị... Bài kinh Bát nhã.

spring1.jpg


Sáng hôm sau, cảnh sát dẫn chú lên thuyền qua bên kia bờ. Mọi chuyện xảy ra như chẳng có gì để nói, chẳng có gì để nói nhiều, tất nhiên như thế. Trừ bài Bát nhã. .

Mùa thu trôi qua, tuyết mùa đông phủ trắng núi non. Một mùa tuyết, hai mùa tuyết, chẳng biết bao nhiêu mùa tuyết trôi qua, chỉ biết ông sư già đã tịch. Giữa băng giá phủ kín mặt hồ, bỗng một hôm, giữa mùa tuyết như thế, một người đàn ông đứng tuổi hiện ra, đi từ bờ bên kia qua bờ bên này của ngôi chùa bỏ hoang. Cũng một người ấy thôi, mãn giấc bướm, mãn tù, mãn cuộc đời, quay về chùa cũ. Cũng một người ấy thôi, nhưng không phải người ấy nữa. Người ấy bây giờ là sư.

Có sư, chùa sống lại. Tượng được đặt trên bàn thờ, bế lên núi, ngự trên chóp đỉnh, tạc cả vào băng. Giữa băng giá, sư mình trần leo núi, thách đố với trời đất, thách đố với cả chính mình. Sư thắng. Sư đã từ giã bờ bên kia. Sẽ không còn ai biết sư là ai nữa, kể cả con thuyền khi hết băng giá sẽ nối lại hai bờ, kể cả chính sư. Nhưng từ giã cuộc đời bên kia đâu có phải là diệt nó. Trái lại, phải sống với nó. Mà cuộc đời ở bên kia cũng chẳng để cho sư quên sư đâu. Nó nhắc nhở hành trình của sư ở chính cái chỗ bắt đầu : ở tiếng khóc khi bắt đầu sự sống. Cho nên, giữa giá băng như thế, một buổi sáng, chùa chưa mở cửa, bỗng vang dội tiếng khóc sơ sinh trước sân. Một thiếu phụ, chẳng biết ai, dấu nước mắt, đem con lên bỏ chùa này, giao cho chùa giọt máu chắc hẳn là kết quả của một hạnh phúc không bền hơn sương tan đầu cỏ. Tiếng khóc! Trẻ thơ! Câu chuyện của chính ông sư, có lẽ của cả mọi người, sẽ lặng lẽ diễn ra hàng ngày trước mắt ông. Câu chuyện đó, ông đã quá biết rồi, cho nên có gì xảy ra chắc ông đều sẽ thản nhiên, chẳng nói một lời, nói gì, có gì để nói, bình thường như xuân hạ thu đông trôi qua trên mái chùa của ông.

Ðấy, băng giá tan rồi, mùa đông đã trôi qua, một mùa đông, hai mùa đông ...Rồi mùa xuân ! Trẻ sơ sinh đã thành chú tiểu nhỏ, ngây thơ đùa nghịch với cóc nhái, rắn rít đang bò ra khỏi hang. Chỉ chừng mươi mùa xuân nữa thôi là chú tiểu sẽ vào tuổi hạ. Coi chừng, chú sắp rút dao. Sắp khắc trên nền gạch :“có chẳng khác không, không chẳng khác có...” Nói gì nữa, có gì để nói ?...

06-autumn-fall.jpg



Ðáng lẽ người kể chuyện chấm dứt ở đây. Nhưng xem phim mới lại nhớ phim cũ. Nhớ quá, không cắt hai phim ra được, cho nên phải thêm. Cũng tại bài kinh Bát nhã, năng trừ nhất thiết khổ chân thật bất hư. Dứt trừ hết khổ ách, chân thật không hư. Tại sao bài kinh Bát nhã có công năng như vậy ? Tại vì kinh nhắc chữ có cho ai mê muội về không, nhắc chữ không cho ai mê muội về có. Cứ thử mê muội rồi thấm Bát nhã.

“Xuân Hạ Thu Ðông ... rồi Xuân” được sáng tác giữa thời đại mà dục tính phơi tràn trên màn ảnh. Ái dục là đề tài của phim, vấn nạn của nhân vật. Tôi không biết đạo diễn có lấy hứng từ phim cũ không, nhưng tôi liên tưởng đến một phim nổi tiếng của Nhật, Quái Ðàm (Kwaidan) (2), chiếu cách đây trên 35 năm, rút từ một chuyện thiền, chẳng có gì giống phim mới ngày nay, trừ bài Bát nhã. Chuyện như sau, tôi kể theo trí nhớ.

Một chú tiểu mù sống trong một ngôi chùa vắng với một ông sư già. Chú chơi đàn tỳ bà rất hay, tiếng đàn ai oán, ai nghe cũng rơi lụy. Một buổi tối mùa hè đầy sao, chú tiểu đang ngồi trước sân tư lự với sao trên trời, bỗng nghe bước chân lạ của ai đến bên cạnh. Tiếng áo giáp khua. Rồi giọng một võ sĩ : “Chú đừng sợ. Nữ chúa của ta nghe danh cây tỳ bà của chú nên bí mật tới đây cùng với cả triều đình của ngài để mời chú đến đàn cho nghe khúc nhạc kể lại trận thủy chiến ngày xưa xảy ra trong vùng này. Ta đưa chú đi”.

Chú tiểu ngần ngại quá, sợ kẻ lạ, sợ đêm khuya, thầy quở, nhưng võ sĩ nắm tay chú kéo đi. Chú được dẫn đến trước một cung điện nguy nga, tráng lệ . Cả một triều đình bá quan văn võ, quý tộc, công nương, lễ phục oai vệ, uy nghiêm, ngồi lặng yên chờ chú. Trên ngai, chủ trì một nữ chúa, trang phục cực kỳ lộng lẫy. Chú tiểu so dây, lựa khúc, gảy bản đàn nổi tiếng, rồi cất tiếng ca não nùng kể lại trận đánh. Cả triều đình thương cảm, rơi lệ.

Gần sáng, võ sĩ đưa chú về lại chùa, hẹn tối mai sẽ trở lại, sẽ đàn, sẽ yến tiệc, sẽ trả công, sẽ gả người đẹp cho chú, nhưng cấm chú tuyệt đối không được hé miệng kể cho ai nghe chuyện này.

Tối hôm sau. Lại tiếng khua của áo giáp. Lại võ sĩ đến tìm. Lại triều đình oai vệ. Lại đàn hát, nỉ non, ai oán. Trận thủy chiến hiện ra qua bài hát, giáo mác, lửa đạn, thây người, máu chảy, cả triều đình thất trận nhảy xuống sông, nữ chúa gieo mình xuống nước, tự vẫn ...

Ðêm hôm đó, đêm hôm sau, đêm sau nữa, cứ đến đêm là ông sư già để ý thấy chú tiểu ôm đàn ra khỏi chùa, đến gần sáng mới về. Ông thầy lo quá, thấy chú tiểu tái xanh, ngớ ngẩn, xa vắng; Chẳng lẽ chú tới nhà gái ? “Này, tiểu, nhỏ nào hớp hồn chú vậy?” Chú tiểu lắc đầu, câm miệng, khiến thầy càng nghi. Tối đó, sư cho người theo dò, nhưng lạ quá, tiểu đi như lướt trên đất, chẳng đường sá gì cả, vừa mới theo bóng chú đã lạc đâu rồi, mất hút. Quay về lối cũ, bỗng nghe thoảng ra, từ nghĩa trang gần chùa, tiếng tỳ bà. Vào nghĩa địa thì chú đấy, đang ngồi đàn một mình trước mộ hoang của phe thất trận thủy chiến ngày xưa. Mưa đẫm ướt áo, chú vẫn đàn say mê . Gọi, chú chẳng nghe. Lay, chú vẫn ngồi. Vẫn đàn, như không biết gì khác. Phải lôi chú, kéo chú về chùa.

Thế này thì tiểu bị ma bắt rồi - sư nói. Thất trận mấy trăm năm, oan hồn vẫn chưa tan. Vẫn triều đình, vẫn bá quan văn võ, vẫn nghi vệ oai phong, vẫn lộng lẫy nữ chúa. Vẫn thủy chiến. Dưới trời sao. Trước nấm đất hoang. Ông sư mài mực, chấm bút, bảo chú tiểu cởi hết áo quần, viết trên toàn thân kín mít chữ, từ chỏm đầu đến mút chân. Chú tiểu bây giờ chỉ còn là bài kinh biết đi, sắc bất dị không, không bất dị sắc ... Sư nói : “tối nay nó lại đến tìm chú nữa đấy ; cứ tĩnh tọa chú Bát nhã”.

kwaidan.jpg


Tối, võ sĩ lại đến, nhưng chẳng thấy chú tiểu đâu cả, chỉ thấy cây tỳ bà vẫn gác nơi vách. Nhìn quanh cây đàn, trống không, chẳng bóng ai, nhưng ô kìa, sao lại có hai cái tai vễnh lên trước mắt, đúng là tai của chú tiểu. Võ sĩ kéo tai ; chú tiểu nhịn đau, chú Bát nhã. Không làm được gì hơn, võ sĩ rút gươm, cắt tai, mang đi. Sư phụ ơi, sư phụ ơi, người đã tuyệt vời năng trừ nhất thiết khổ, chân thật bất hư kín mít toàn thân, từ chỏm đầu đến mút chân, chỉ quên khuấy yết đế trên hai tai !



Không mắt, không tai, vô nhãn nhĩ tỷ thiệt thân ý, chú tiểu bây giờ chỉ còn là cây đàn, tai mắt chú là cây tỳ bà, cây tỳ bà là tai mắt chú, người và đàn là một. Trong chuyện thiền mà cuốn phim lấy hứng, chú tiểu trở thành danh cầm bậc nhất thiên hạ.

***

Hai phim, hai chuyện chẳng giống gì nhau, chỉ cùng mượn hứng từ bài Bát nhã. Sự đời ! Trăm vạn chuyện khác nhau đến mấy, rốt cuộc rồi cũng một chữ ấy mà thôi, không ngộ thì mê, không mê thì ngộ, nói gì, có gì nữa để nói ?
Tác giả
C H T

(1) Printemps, été, automne, hiver... et printemps (tên Hàn ngữ là Bom, yeorum, gaeul, gyeowool, geurigo, bom, 2003), đạo diễn : Kim Ki-Duk

(2) Phim của Masaki Kobayashi, Nhật Bản (1964). Câu chuyện tác giả kể lại là một trong 4 chuyện hợp thành cuốn phim
Kwaidan

 
Dù chuyện đã được giải quyết xong..vẫn phải đọc lại :

Nghi mất tiền, trường giao HS lớp 2 cho công anThứ ba, 25/12/2012 15:25

Cô giáo nghi ngờ một học sinh lấy tiền của mình, trường mời công an đến hỏi cung, đưa học sinh về trụ sở.


Bà Ngô Thị Mai, Hiệu trưởng Trường Tiểu học Trung Lập Thượng, Củ Chi, TP HCM kể lại sự việc:

Sau giờ sinh hoạt dưới cờ vào sáng 26/11, cô Th., giáo viên khối lớp 2 của trường phát hiện số tiền hơn một triệu đồng đã không còn trong giỏ đựng đồ của mình.

Nghe một học sinh trong lớp nói rằng thấy em T. lục giỏ của cô nên cô Th. chạy sang lớp em T. học và tra hỏi nhưng cô bé không nhận.

145308_giaohocsinhcongan1.jpg
Ngôi trường nơi xảy ra sự việc
Sau đó, cô Th. dẫn học sinh này xuống trước văn phòng trường, có thêm thầy tổng phụ trách Đội và một giáo viên khác cùng hỏi T. về việc lấy tiền.

Lúc này cô bé gật đầu xác nhận nhưng mọi người đi tìm ở những chỗ bé chỉ đều không thấy.
Hai công an xã Trung Lập Thượng được mời đến trường và tiến hành hỏi cung mọi người cũng không thể tìm ra được tiền ở những nơi bé T. chỉ là đã giấu.

Anh trai T., học sinh lớp 5 cùng trường xuống động viên em gái trả lại tiền vẫn không có kết quả và T. bị giải về trụ sở công an xã cùng anh trai.

Đến 13h cùng ngày, nhà trường thông báo tiền vẫn nguyên trong giỏ của cô giáo thì 2 học sinh được cho về nhà.

Cũng theo lời bà Mai, hoàn cảnh nhà em T. rất đáng thương, bố mẹ ly hôn, hai anh em T. phải ở với bà ngoại đã hơn 60 tuổi.

'Nói thật là sau chuyện này tôi day dứt lắm. 30 năm trong nghề tôi chưa bao giờ nói nặng học sinh.

Tôi đã rút kinh nghiệm đối với giáo viên trong cuộc họp hội đồng sư phạm đợt vừa rồi', bà Mai chia sẻ.

Được biết, sau khi sự việc xảy ra khoảng một tuần, cô Th. đã đến xin lỗi gia đình học sinh.
> Kiểm điểm cô giáo bị học sinh cắt tay phản đối
 
Trời đất ơi! Vết thương chí-mạng trong 2 trái tim non nầy sẽ hủy-hoại đời 2 em!
Ở các xứ tôn-trọng nhân-quyền, thì ngôi trường nầy phải bồi-thường cho 2 học-sinh nạn-nhân đến phá-sản.
Thiệt là không chữi thề không được!
 
Nhân phẩm bị hủy hoại ngay từ khi còn ở lớp 2 thì nguy hiểm thật
Và...sửa sai :

Hiệu trưởng công khai xin lỗi học sinh lớp 2

Thứ năm, 27/12/2012 15:56
Sáng nay (27/12), trước toàn giáo viên, học sinh Tiểu học Trung Lập Thượng (TP HCM), ban giám hiệu đã xin lỗi em Thẩm.
Trước đó, ngày 26/11, do nghi ngờ em Thẩm - học sinh lớp 2 của trường lấy trộm tiền của cô giáo Nguyễn Thị Thu, nhà trường đã giao em cho công an xã thẩm vấn.

Đến hơn 13h cùng ngày, khi nhà trường gọi điện lên báo rằng tiền vẫn còn nguyên trong giỏ của cô giáo thì công an mới cho em về nhà.

Hôm nay, hiệu trưởng Ngô Thị Mai, cô giáo Thu và ông Nguyễn Văn Đắng (Tổng phụ trách Đội, kiêm giáo viên tư vấn học đường) đã trực tiếp xin lỗi em Thẩm.

'Đây là sai lầm mà tôi sẽ nhớ suốt đời, không bao giờ dám tái phạm.

Sai lầm xuất phát từ sự nóng vội, những phản ứng thiếu sư phạm, không mang tính giáo dục khiến em Thẩm bị hàm oan', cô giáo Thu vừa khóc vừa phát biểu.

152158_1.jpg
Em Thẩm, học sinh bị nghi lấy tiền
Cũng trong buổi sáng nay, cô giáo Thu cũng đã trực tiếp tặng Thẩm một chiếc xe đạp để em làm phương tiện đi học.

Trường Tiểu học Trung Lập Thượng cũng tổ chức quyên góp giúp đỡ hai anh em Thẩm ngay tại trường.

Bà Ngô Thị Mai cho biết đã có 1 luật sư ở Hà Nội và 1 bạn đọc tên Yến gửi tặng em Thẩm số tiền 1,3 triệu đồng.
Một học sinh cũ của trường gửi tặng 100 USD (khoảng hơn 2 triệu đồng).

152339_2.jpg
Học sinh trong trường ủng hộ em Thẩm
152339_3.jpg
Chiếc xe đạp cô giáo Thu tặng
Ông Phạm Thanh Tâm, Phó Ban chỉ huy Công an xã Trung Lập Thượng, người trực tiếp đưa em Thẩm về công an xã đến xin lỗi gia đình vào buổi trưa.

Được biết, gia đình em Thẩm hoàn cảnh khó khăn, bố mẹ ly hôn, em cùng anh trai phải sống với bà ngoại.

> Nhà trường phải xin lỗi vụ giao bé lớp 2 cho CA





 
Trời đất ơi! Vết thương chí-mạng trong 2 trái tim non nầy sẽ hủy-hoại đời 2 em!
Ở các xứ tôn-trọng nhân-quyền, thì ngôi trường nầy phải bồi-thường cho 2 học-sinh nạn-nhân đến phá-sản.
Thiệt là không chữi thề không được!

Đ.M ( em chửi dùm bác Thủy canh :lol:)
Đã mang cái chức thầy đồ mà hành xử thua loại người dốt nát. Sao mấy cô giáo kia không nhìn xem cái gương bà hiệu trưởng của trường Sandy Hôk ở bang Connecticut lấy thân mình chèn cửa che đạn cho các học sinh tiểu học ? Thiệt là...không chửi thề giống như bác Thủy canh cũng không được.

Đọc câu chuyện "Vô Cảm" của bác Thủy canh post thì em cũng không tin có thật. Nhưng nếu có thật thì tác giả bài này là người có tội dung túng cho những hành động vô cảm. Đúng ra tác giả phải nêu đ1ich danh cái bệnh viện đó, ca trực nào để mọi người xúm lại ném đá hội đồng cái xấu. Viết thậm thà thậm thụt như vậy thì kẻ vô cảm lại tiếp tục vô cảm. Thiệt là cũng có học nhưng sao...
 


Mời bà con bấm vào xem chơi!


*

Mời xem phim
Xuân hạ thu đông , rồi xuân


--------

Tui không tin chuyện dưới đây có thật.
Thủy-canh.
*
Rất cãm động,đọc mà rơi lệ quý vị ơi!



Chuyên có thật 100%

VÔ CẢM
MINH DIỆN



Trời bừng sáng sau cơn mưa đêm… Bầu không khí tươi mát ùa vào căn phòng trực cấp cứu của bệnh viện. Cô y tá trẻ mặc bộ blue trắng nhận ca trực, cô vừa lật cuốn sổ ghi chép của ca trước vừa sửa lại bình hoa tươi trên bàn. Hai má cô ửng hồng, đôi mắt long lanh và làn môi xinh tươi như hoa hồng mới nở.
Cách đó không xa, ông bác sĩ tuổi trung niên ngồi trước bàn làm việc của mình, mỉm cười nhìn dòng chữ “Thầy thuốc như mẹ hiền” uốn bằng đèn huỳnh quang màu đỏ tươi rực rỡ vừa mới sắm.
Bỗng một chiếc xe gắn máy phóng thẳng tới cửa phòng cấp cứu. Gã lái xe mặt mày bậm trợn, ngồi sau là cô gái mặc mỗi chiếc áo nịt, phấn son nhòe nhoẹt. Cô ta đang ôm một thằng bé chừng mười tuổi được quấn trong cái áo khoác phụ nữ loang máu.
Gã lái xe giật thằng bé trên tay cô gái rồi bồng vào trong phòng, nói với cô y tá:
- Bác sĩ ơi cấp cứu!...
Cô y tá rời mắt khỏi cuốn sổ:
- Sao vậy?
- Thằng bé bị tai nạn giao thông!
- Anh là bố nó à?
- Không, tôi lái xe ôm…
- Thế còn cô kia?
Cô y tá liếc mắt về phía cô gái ăn mặc hở hang đứng ngoài cửa rồi bĩu môi cau mặt! Nước mưa đã cuốn trôi lớp son phấn rẻ tiền trên mặt cô ta để lộ ra lớp da nhợt nhạt. “Trông chẳng khác gì gái điếm đứng đường mạt hạng. Vào nơi công cộng mà dám phô ra như thế à!?...” -Cô y tá nghĩ. Quả thật cô gái mặc áo ngực ấy là một gái điếm nghèo, sáng sớm nay cô đang đi xe ôm của gã kia về phòng trọ thì gặp thằng bé bị tai nạn nằm ngất bên đường. Chiếc xe nào đã quẹt phải nó rồi bỏ chạy luôn. Thương hại, cô cởi áo khoác quấn cho thằng bé rồi cùng anh xe ôm đưa nó đến đây.
Gã xe ôm bối rối liếc qua cô gái, ấp úng trả lời cô y tá:
- À! Cô này…
Cô y tá xinh đẹp không thèm nhìn hai người, cất giọng lạnh lùng:
- Sang bên kia làm thủ tục nhập viện.


Gã xe ôm đặt thằng bé xuống thềm, rồi chạy sang dãy nhà đối diện. Người bảo vệ chỉ cho gã cái lỗ hình vuông bằng hai bàn tay trên tấm kính dày, chung quanh bịt lưới sắt. Gã khom lưng nhìn vào trong ô vuông đó, thấy gương mặt hồng hào của người nữ nhân viên ngồi sau chiếc bàn chất đầy sổ sách. Gã nhũn nhặn:
- Chị ơi, cho tôi làm thủ tục nhập viện…
Người phụ nữ không ngẩng mặt lên, nói máy móc:
- Tên gì? Hộ khẩu? Chứng minh nhân dân?...
- Dạ… thằng nhỏ mà!...
- Thằng nhỏ à?... Anh là gì của nó?
- Tôi lái xe ôm… Thấy nó bị tai nạn nên chở tới đây.
- Rắc rối đây! Sao anh không gọi bố mẹ nó tới làm thủ tục nhập viện?
Gã xe ôm nói lắp bắp:
- Tôi đâu biết bố mẹ nó… Với lại gấp quá! Cấp cứu mà!
- Thôi được! Nộp tiền tạm ứng viện phí.
- … Bao nhiêu chị?
- Hai triệu.
Gã xe ôm ngẩn ra, hắn biết trong túi mình có chưa tới hai trăm ngàn. Gã móc hết tiền ra rồi nói với chị nhân viên:
- Tôi chỉ có bi nhiêu… Chị làm ơn cho thằng bé nhập viện, rồi tôi sẽ tìm bố mẹ nó tới thanh toán.
- Không được! Anh không biết bố mẹ nó thì làm sao mà tìm?
- Chị làm ơn… Thằng bé sắp chết!...
- Đã bảo không được! - Chị nhân viên gắt, cộc cằn máy móc - Bệnh viện đã quy định.


Gã xe ôm đành chạy trở lại lại phòng cấp cứu, hỏi cô gái điếm:
- Cô có tiền không?...
Cô gái khẽ quay đi, moi trong chiếc áo nịt ra mấy tờ bạc được xếp cuốn chặt rồi đưa cho anh xe ôm. Anh ta mở ra: Chưa tới trăm ngàn!...
- Bi nhiêu nhằm nhò gì? - Anh xe ôm lắc đầu cau mặt.
Mặt anh xe ôm xám ngắt, mắt đỏ ngầu, hai hàm răng nghiến chặt của anh ta như muốn nhai nát cái gì đó… Cô gái điếm nhìn bộ mặt cau có của anh ta mà phát sợ, nói như phân trần:
- Đêm qua mưa… tôi không có khách…


Thằng bé nằm dưới thềm kêu khóc thảm thiết. Nhìn nó thật thê thảm: Chiếc quần đùi rách tướp để lộ ra cẳng chân dập nát, da thịt chỗ đó bầy nhầy. Máu vẫn chảy từ vết thương chưa được băng bó. Da thằng bé bợt nhớt như con cá ươn, ngực thoi thóp và đôi mắt long lanh đảo nhìn mọi người như cầu cứu. Trong túi áo ngực của nó còn thò ra xấp vé số ướt nhẹp.
Gã xe ôm nhìn thằng bé mà ứa nước mắt. Gã chợt quỳ mọp xuống trước mặt ông bác sĩ, hai tay cầm mấy tờ bạc cô gái điếm vừa đưa đội lên đầu:
- Tôi lạy bác sĩ! Bác sĩ làm ơn cứu thằng bé!...
Khuôn mặt đen sạm của gã xe ôm méo mó khổ sở. Ông bác sĩ ngoảnh mặt đi chỗ khác, nhịp nhịp chân phải…


Gã xe ôm biết có quỳ xin cũng không được. Gã đứng dậy nói với cô gái điếm:
- Thôi được! Cô trông thằng bé, để tôi đi cầm đỡ chiếc xe vậy.
Cô gái điếm lau nước mắt:
- Hay anh… để em qua phòng bên kia… bán máu?
Gã xe ôm nhìn lướt qua thân hình gầy gò của cô gái, lắc đầu:
- Cô thì có bao nhiêu máu mà bán? Chưa chắc họ đã chịu mua…
Gã nói xong hấp tấp chạy ra cửa bệnh viện.




Lúc ấy phòng cấp cứu tiếp nhận thêm mấy bệnh nhân: Một cô gái tự tử vì thất tình, một anh chàng say rượu bị trúng gió và một người đàn ông bị nhồi máu cơ tim - ông này được đưa tới bằng xe hơi Mercedes kèm hai Honda @ hộ tống. Người thân của ông nhà giàu đứng chật phòng cấp cứu. Bà vợ mập mạp của ông ta nhanh nhẹn dúi vào tay bác sĩ và cô y tá mỗi người một phong bao:
- Tốn kém bao nhiêu cũng được, bác sĩ mau mau cứu sống chồng tôi.
Ông bác sĩ vội vã rời cái bàn như bị bắt vít từ sáng, cô y tá cuống quýt đẩy băng ca… Ông bệnh nhân “đại gia” được đưa thẳng vào phòng chăm sóc đặc biệt không cần qua thủ tục nào.
Trong khi đó, thằng bé bị bỏ quên ngoài thềm cùng cô gái điếm.




… Ánh mặt trời rực rỡ chiếu xuống sân bệnh viện. Ba lá cờ phấp phới tung bay trên đỉnh cột thép không rỉ, trên cùng là cờ đảng,giữa là cờ tổ quốc và dưới cùng là cờ bệnh viện với hình con rắn mổ cái cốc thủy tinh. Cuộc chào cờ buổi sáng thứ hai của cán bộ nhân viên bệnh viện vừa kết thúc. Người thân của những bệnh nhân nghèo kéo nhau tụ tập dưới chân cột cờ để nhận cơm, nhận cháo từ thiện của một sư bà mang tới.
Đang múc cơm cháo cho mọi người, sư bà bỗng nghe tiếng kêu rên của thằng bé từ phòng cấp cứu vọng ra. Bà ngừng tay lắng nghe… tiếng kêu rên càng lúc càng rõ hơn… Bằng tâm thức của một người tu hành, sư bà thấu hiểu tiếng kêu tuyệt vọng của một sinh linh. Bà vội trao công việc phát cơm cháo cho người khác rồi chạy tới.


Thằng bé đã kiệt sức, mắt nhắm nghiền… Cô gái điếm bất lực ngồi bên cạnh. Sư bà cúi sát xuống khuôn mặt trẻ thơ trắng bệt:
- Nam mô A Di Đà Phật!...
Thằng bé mở mắt nhìn bà sư, nước mắt nó ứa ra. Sư bà nhìn chiếc áo phụ nữ vấy máu, rồi liếc qua cô gái ốm yếu ăn mặc hở hang phong phanh… Bà hiểu ngay sự tình, liền quay lại chỗ phát cơm cháo từ thiện, nói với mọi người:
- Thưa quý vị! Trong kia có một đứa trẻ đang hấp hối vì không có tiền nhập viện. Tôi biết quý vị ở đây cũng không giàu có gì…
Sư bà chỉ nói được như vậy. Những người nghèo khó lại có trái tim nhạy cảm - họ hiểu ngay điều sư bà muốn nói và việc cần làm. Thế là chiếc vung nồi cháo từ thiện biến thành thùng công đức…
Vừa lúc đó gã xe ôm trở về, mặt mướt mồ hôi. Gã đã cầm được chiếc xe gắn máy là cần câu cơm của gia đình, phải năn nỉ mãi mới được triệu rưỡi, cộng với số tiền của gã, của cô gái và lòng hảo tâm của nhiều người nghèo, may quá được hơn hai triệu! - Đủ ứng tiền nhập viện cho thằng bé.
Mọi người thở phào nhẹ nhõm, ngồi quây quần bên nhau ở góc sân chia nhau húp những bát cháo từ thiện.
Bỗng cô y tá xăm xăm đi tới nói với gã xe ôm:
- Thằng bé cần phải tiếp máu. Nhóm máu O…
- Trời! - Gã xe ôm thốt lên! Thẩn thờ đặt bát cháo đang húp dở xuống nền gạch…
Bầu không khí như chết lặng trước tình huống bất ngờ. Cô gái điếm bỗng lên tiếng:
- Máu O à!?... Tôi nhóm máu O!...
Nói xong, cô nhanh chóng theo y tá vào phòng hiến máu. Gã xe ôm cũng vội vã bước theo…


Nửa giờ sau gã xe ôm dìu cô gái điếm ra. Trên gương mặt nhợt nhạt của cô hé nở nụ cười.




Minh Diện

<tbody>
</tbody>









 
Last edited:
Cô gái quỳ xuống đường, van xin CSGT

Thứ bẩy, 29/12/2012 09:05
Lo bị giữ phương tiện, giữa trưa nắng, một cô gái trẻ đã quỳ xuống đường, chắp tay van xin lực lượng CSGT đừng giữ xe.


Sự việc trên ghi lại vào khoảng 12h ngày 28/12, trên đường Đồng Văn Cống, phường Thạnh Mỹ Lợi, quận 2, TP HCM.

084802_quy1fc5ea.jpg
Cô gái trẻ bị CSGT lập biên bản
Vào thời điểm trên, tổ CSGT đội Rạch Chiếc (thuộc Phòng CSGT Công an TP HCM) gồm 4 người dừng xe công vụ trên lề đường Đồng Văn Cống để chặn dừng phương tiện vi phạm.
Lúc này xe máy BKS 72F1 - 061… do một cô gái còn khá trẻ điều khiển lưu thông từ hướng Xa lộ Hà Nội về bến phà Cát Lái đã bị tổ CSGT chặn dừng để kiểm tra, xử lý.
084821_quyfc5eatrong.jpg
Thấy có dấu hiệu bị giữ xe, cô gái bất ngờ quỳ xuống van xin
Trong lúc CSGT đang lập biên bản vi phạm và một CSGT khác đến đưa túi xách trên xe cô gái xuống với ý định tạm giữ phương tiện của cô này, do quá hoảng sợ, cô gái này đã bất ngờ quỳ gối dưới chân các CSGT, chắp tay van xin.
Quá bất ngờ trước hành động trên của cô gái, chiến sĩ CSGT khác đứng bên cạnh đã cùng đồng nghiệp vội kéo tay thuyết phục cô gái đứng dậy.
084837_quy2fc5ea.jpg
Một CSGT cố gắng thuyết phục cô gái đứng dậy
Ngay sau đó chiếc xe vi phạm được CSGT đưa đi. Cô gái tiếp tục chạy đến cố níu kéo, van xin CSGT 'tha' trước sự chứng kiến của rất nhiều người đi đường.
Cuối cùng các chiến sĩ CSGT đã quyết định lập biên bản và cho cô gái lấy xe tiếp tục hành trình về bến phà Cát Lái.
> Sỏi đá phủ đầy QL 1A, giao thông hỗn loạn
 
Phiếm luận
Con Cóc là Cậu Ông Trời...
<address align="left"> ________________________________________________________________________________________________ </address>
Chu Thập
734px-Bufo_marinus_from_Australia.JPG
Tôi không phải là thành viên của bất cứ Hội bảo vệ súc vật nào. Tôi cũng chẳng có vinh dự cầm trong tay cái thẻ nào của Đảng Xanh và dĩ nhiên tôi cũng chẳng kiêng thịt cá gì hết. Vậy mà gần đây tôi lại thấy mình cũng biết “yêu thương” súc vật nếu không bằng thì cũng phải hơn mấy ông bà trong mấy cái hội bảo vệ súc vật. Gà vịt tôi nuôi trong nhà thì khỏi nói. Tôi tự tay cho vô lồng ấp, “nâng như nâng trứng, hứng như hứng hoa”, tận tình chăm sóc để chúng có một cuộc sống thật lành mạnh (good life): không những được sống tự do (free range), chúng còn được leo trèo rong chơi khắp nơi trong khu rừng phía sau nhà. Nói chung, chúng được sống tự do thoải mái chứ không bị ru rú trong nhà hay đi đâu cũng phải bị dắt đi. Với tôi, gà vịt nuôi phía sau nhà cũng là hình ảnh của một quê hương bỏ túi. Chọn Úc đại lợi làm quê hương thứ hai, nhưng tôi biết rằng đất nước này không thể nào thay thế được quê hương nơi chôn nhau cắt rún của tôi. Đi vào rừng, tôi không thể nào tìm lại được những con chim tôi đã từng nuôi trong tuổi thơ. Suối ở đây cũng không có bóng dáng những con cá mà tôi đã câu được khi vừa có trí khôn. Không riêng gì chim cá, có những thú vật tôi muốn tìm lại mà chẳng làm sao thấy được. Như con cóc chẳng hạn. Ở nhà quê Việt nam thì chỗ nào cũng có, còn ở đây muốn gặp lại nó, phải đi mãi lên tiểu bang Queensland hay lãnh thổ phía Bắc Úc. Chính vì vậy mà tối thứ Tư 13 tháng 6 vừa qua, tự nhiên tôi thấy vui khi nhìn lại hình ảnh của con cóc trong một chương trình phóng sự của Đài truyền hình SBS. Vui nhưng cũng thấy “thương” và “ tội nghiệp” cho cái giống thú vật mà ngay từ thuở nhỏ, tôi đã được dạy phải gọi là “cậu ông trời”. Ở nhà quê tôi, con cóc quả là “cậu ông trời”. Chỗ nào cũng có nó và chẳng ai dám đụng tới nó. Nó “thánh thiêng” chẳng khác nào con bò bên Ấn độ. Từ cái lỗ ở góc sân nhà cho đến ngoài vườn, trong bụi chuối, ngoài bờ ao, hễ chỗ nào có một chút nước ẩm là có cóc. Nói gì đến nòng nọc. Sông con, sông cái, mương lạch, ruộng, ao hồ...cứ có nước là có nòng nọc. Mùa mưa lụt, mùa khô cạn... bất kể mùa nào cũng có nòng nọc. Cóc nhởn nhơ nhảy từng bước thật chậm mà chẳng có cái giống săn mồi nào ở Việt nam dám đụng tới nó. Nòng nọc thì hàng hà sa số mà cũng chẳng có con cá nào dám táp. Cóc oai thiệt. Nắng hạn khô cằn, nhưng hễ cóc nghiến răng ca bài “ta lên ta hỏi ông trời làm sao nắng mãi nắng hoài mà chẳng mưa” thì trời cũng đành phải mưa xuống thôi. Vậy mà có lần tôi đã dám đụng tới “cậu ông trời”. Số là một cậu em con ông chú của tôi chẳng may có cái bụng ỏng, phình ra như cái trống chầu. Tôi nghe người lớn nói đây là bệnh “cam tích”. Thời đó tôi chưa nghe nói tới bệnh suy dinh dưỡng. Dĩ nhiên, trẻ con ở nhà quê thiếu ăn là chuyện ai cũng biết. Nhưng do suy dinh dưỡng mà bụng phình lên là chuyện chẳng ai bàn tới. Sau khi thử đủ thứ thuốc của mấy ông lang vườn mà cái bụng phệ của cậu em họ tôi chẳng chịu nhỏ lại, bà nội tôi nghe người ta mách bảo về món thuốc tiên từ thịt cóc, cho nên mới sai lũ nhóc chúng tôi bắt một mớ về cho bà. Sau khi chặt đầu, lột da và quăng hết lục phủ ngũ tạng, bà nội tôi mới bằm nát thịt cóc ra, ướp với hành tiêu tỏi nước mắm rồi cuốn với lá cam. Đúng là thịt của “cậu ông trời”. Cậu em họ của tôi chỉ ăn đâu có hai lần thịt cóc nướng thì cái bụng xẹp xuống tức khắc như bong bóng xì hơi. Dĩ nhiên, anh em chúng tôi, tuy không mắc cam tích, cũng ráng “canh me” thưởng thức được món thịt cóc cuốn lá cam nướng. Sau năm 1975, thời “chó chết” đã đành, mà giống gì cũng phải “ chết” hết, “ cậu ông trời” cũng chẳng được tha. Không ngờ đây là nguồn “chất đạm” vừa bổ dưỡng lại vừa “mỹ vị” có khi còn hơn cả thịt ếch cho dân mình. Không chỉ ở Việt Nam mà cóc còn theo chân người tỵ nạn đến nơi tạm dung. Tôi còn nhớ vào thập niên 80, Hoa kỳ mở trại Bataan tại Phi luật tân để đón nhận và giúp người tỵ nạn Việt nam chuẩn bị bước vào cuộc sống mới. Trong trại có một cái chợ thật lớn mà người tỵ nạn có thể mua hầu hết mọi thứ. Một buổi sáng Chúa nhật nọ đang đi dạo, mắt tôi sáng lên khi nhìn thấy những cái đùi ếch trên một sạp bán hàng của một người Phi luật tân. Nhưng nhìn kỹ mới biết đó là thịt cóc. Tôi chỉ vào những cái đùi cóc và nói với người bạn đi cùng rằng đây là thịt cóc. Không ngờ người bán hàng hiểu được tiếng Việt cho nên mới la lên: “No, it’s not “cóc”. It’s ếch”. Biết là gặp một anh chàng Phi ba xạo, nhưng tôi cũng chẳng muốn đem cái “kiến thức” nông dân của mình ra để mà tranh luận làm gì. Tôi nghĩ bụng: cóc hay ếch gì cũng được, miễn ăn được và ngon là được! Tự dưng tôi lại nghĩ đến truyện Trê Cóc. Trong “Việt nam thi văn hợp tuyển”, tác giả Dương Quảng Hàm bình rằng chủ ý của truyện này là để “bày tỏ cái thói “tranh hơi tức khí” gây nên những cuộc kiện tụng vô ích và chỉ trích cái tệ nhũng lạm của bọn sai nha cùng cái hại “xui nguyên giục bị” của bọn thày cò”. Cóc, tuy là “cậu ông trời” nhưng xem ra lại sống rất âm thầm, chẳng bao giờ inh ỏi, ồn ào như ếch hay ễnh ương. Với tôi, cóc là hình ảnh của những con người nhàn nhã, kiên nhẫn, khoan nhượng, hiếu hòa, chẳng bao giờ thích cãi cọ mất giờ. Đó cũng là ý nghĩ tôi thường có mỗi khi ngân nga “bài thơ con cóc”: “Con cóc trong hang, con cóc nhảy ra. Con cóc nhảy ra, con cóc ngồi đó. Con cóc ngồi đó, con cóc nhảy đi”. Tôi chỉ nghĩ đến cái hình ảnh lúc nào cũng “thư giãn” và hiền hòa của “cậu ông trời” thôi. Còn chuyện thơ phú thì tôi mù tịt. Thời trung học, giáo sư Việt văn bảo đây là bài thơ dở tiêu biểu nhứt trong văn chương Việt nam. Nói dở thì biết dở chứ làm gì có đủ óc phê bình và lý luận để phân tách bài thơ. May quá. Đọc được tác phẩm “Thơ Con Cóc” và những vấn đề khác” của tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc, tôi mới biết rằng đây là một bài thơ độc đáo. Theo tác giả, “bài thơ con cóc là “bài thơ hay nhất trong tất cả những bài thơ miêu tả cái dở, cái kém nghệ thuật và kém thẩm mỹ”. Nhưng giá trị bài thơ “Con cóc” không phải chỉ có như vậy. Theo ông, bài thơ là một “sự kết hợp giữa hai yếu tố trịnh trọng và vô nghĩa góp phần mở rộng trường liên tưởng của bài thơ: với loài cóc chỉ có thể có sự vô nghĩa chứ không có sự trịnh trọng. Trịnh trọng là khái niệm dùng cho con người, một loài vật có trí tuệ và khả năng tự giác để gán cho hành động của mình một giá trị nào đó khi chính nó không có”. Như vậy bài thơ “Con cóc” đang nói về con người.Tác giả suy luận: “Trong cuộc đời, chúng ta làm bao nhiêu công việc, đôi khi, một cách cực kỳ nghiêm cẩn. Chúng ta đắn đo trước khi khởi sự. Đã đành. Chúng ta còn có thói quen tự chiêm ngưỡng mình lúc đang hành động. Chúng ta tự khoác lên chúng ta cơ man những hào quang lấp lánh. Chúng ta lạm dụng tính từ để miêu tả, để tô vẽ việc làm của chúng ta. Cuối cùng, chúng ta chỉ sống với sự diễn dịch về cuộc đời chứ không phải với chính cuộc đời. Huyền thoại lên ngôi. Ảo ảnh che khuất hiện thực” (Nguyễn Hưng Quốc, Thơ Con Cóc và những vấn đề khác, Nhà xuất bản văn mới, Hoa kỳ, 2006, trg 54-57). Từ bài thơ “Con cóc”, tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc lại mở ra cho chúng ta “Triết lý con cóc”. Thật vậy, “cậu ông trời” gợi lên cho tôi nhiều suy nghĩ về con người. Con người không những “tự khoác lên cơ man những hào quang lấp lánh” mà cũng gán cho con thú những điều mà thực sự nó chẳng hề có. Theo dõi bài phóng sự về con cóc trên Đài SBS, tôi nghĩ đến cái thói “vắt chanh bỏ vỏ” và “độc ác” của con người. Được biết loài cóc hiện đang có mặt tại tiểu bang Queensland và được Anh ngữ đặt tên là “cane toad” xuất phát từ Trung và Nam Mỹ. Giống cóc này được du nhập vào Úc đại lợi qua ngã Hawaii năm 1935 với mục đích để tiêu diệt loại bọ cánh cứng chuyên phá hoại mía. Bọ cánh cứng thường ăn lá mía, nhưng vấn đề đối với nhà nông Úc là ấu trùng của chúng mới tác hại nhiều hơn, bởi vì chúng gậm nát gốc mía. Cóc được đưa vào Bắc Úc đã làm công tác một cách xuất sắc: nó đã diệt trừ ấu trùng của bọ cánh cứng một cách dễ dàng. Nhưng tránh vỏ dưa lại gặp vỏ dừa. Từ con số 102 con hồi năm 1935, cóc đã sinh sản một cách nhanh chóng đến nỗi chẳng bao lâu đã tràn ngập khắp tiểu bang Queensland và đang mở rộng biên giới sang lãnh thổ New South Wales. Cóc là “cậu ông trời” mà. Hễ cóc đi đến đâu là nhiều giống thú khác, nếu không bỏ của chạy lấy thân thì cũng bị trúng nọc độc của cóc mà lăn ra chết. Kể ra gia súc và các loại thú săn mồi khác ở Việt nam khôn hơn: cứ gặp “cậu ông trời”, tránh sang một bên là xong chuyện! Có đâu như rắn độc hay như loài kỳ đà Goanna ở Úc này, dù có được Hội bảo vệ súc vật bảo vệ đến đâu, đụng phải cóc là chết ngay. Chính vì vậy mà từ bao lâu nay, để bảo vệ súc vật, Úc đại lợi đã phải nát óc mà vẫn không tìm ra một phương cách hữu hiệu nào để tiêu diệt “cậu ông trời”. Mới đây, các nhà khoa học Úc đã mừng phở lở khi khám phá ra rằng chất độc chứa trong da cóc có thể giết được nòng nọc và như vậy viễn ảnh cho “cậu ông trời” quy tiên không còn xa nữa. Nghe tin này tôi thấy cũng buồn. Người ta đưa cóc vào Úc để cóc giúp đỡ nhà nông tiêu diệt bọ cánh cứng. Nay xong việc, người ta loại cóc ra khỏi chiến trường. Trẻ con Việt nam sinh ra và lớn lên ở ngoài Queensland và lãnh thổ Bắc Úc còn lâu mới “tận mục sở thị” con cóc và còn lâu mới thưởng thức được bài thơ “Con Cóc”. Chuyện con cóc bị “vắt chanh bỏ vỏ” cũng khiến tôi liên tưởng đến không biết bao nhiêu hạng người trong xã hội, vì lý do sức khỏe, tuổi tác hay bệnh tật không còn được xem là những thành phần hữu dụng cho xã hội và rất thường bị đẩy ra bên lề. Thật ra, xã hội loài người cần có tuổi trẻ, những thành phần lao động sản xuất, những bộ óc thông minh, những con người khỏe mạnh...nhưng không thể được xem là lành mạnh nếu thiếu hoặc không màng đến những những thành phần vô sản xuất, những người khuyết tật, những bậc cao tuổi. Xã hội vẫn mãi mãi cần có những hạng người ấy để dạy cho con người sự tôn trọng, lòng biết ơn, tình liên đới vốn là những giá trị nền tảng giúp rèn luyện nhân cách và xây dựng xã hội. Chuyện con cóc bị tiêu diệt khỏi Úc đại lợi cũng làm tôi nghĩ đến tính độc ác của con người. Xét cho cùng chỉ có con người mới độc ác mà thôi. Con người thường nói đến “thú dữ”, bởi vì chúng cắn xé những con thú khác. Kỳ thực, giữa những con thú trong cùng một chủng loại dường như không hề có sự “cắn xé” nhau. Chỉ có loài người mới thực sự tàn sát lẫn nhau và tàn sát một cách dã man. “Dữ” và “độc ác” là hai thuộc tính của con người. Con người cũng thường nói đến “thú tính”. Thực ra, dường như cái “thú tính” trong con người có khi còn nhiều hơn nơi thú vật. Tiếc quá. Trong cuộc nam tiến, “Cậu ông trời” đã phải dừng chân ở biên giới New South Wales. Tôi chẳng còn hy vọng gặp lại “cậu” sau vườn nhà tôi. Các loại thú rừng chuyên ăn cắp trứng, bắt gà vịt và phá vườn rau của tôi như chồn, possums hay goanna cứ tỉnh bơ xâm nhập gia cư một cách bất hợp pháp mà lại còn được pháp luật bảo vệ. Tôi sẽ chẳng bao giờ có cơ hội tận mắt nhìn cảnh “con cóc trong hang, con cóc nhảy ra...” để ngâm bài thơ “Con Cóc” và đào sâu “triết lý con cóc” nữa.
cane_toad.jpg
Cóc Úc trung bình dài 10-23 cm, nặng 1.3kg - 1.8 kg.( hình trên là 1 con cóc khổng lồ)
Hy vọng một ngày nào đó, người ta tìm ra được những lợi ích độc đáo khác nơi con cóc để cóc được trả lại “danh dự” như đã từng trả lại “danh dự” cho bọ hung. Vì tôi luôn tin rằng trong cái thiên nhiên chung quanh chúng ta chẳng có gì là vô ích, vấn đề là có tìm ra công dụng hay có biết xử dụng cho đúng hay không. Tôi thấy mình còn chưa đến nỗi “hết xài” mà, huống chi là “cậu ông trời”. Chu Thập
 
Khi chưa “diệt được dục”...khi chưa “tắt được lửa lòng”..tôi không tin các bác “ tuổi già nương tựa vào nhau”
Mà tôi tin rằng..tuổi đã già các bác vẫn còn muốn tìm “đối tác hợp pháp” để cấu xé và tàn sát nhau

Vợ chồng là 2 kẻ thù không đội trời chung...nhưng vẫn phải chung sống trong 1 mái nhà
( danh ngôn thế giới)

Xã hội Đời sống


Đám cưới gây xôn xao của cặp vợ chồng U60Thứ bẩy, 05/01/2013 09:26

Đây là đám cưới hy hữu của cô dâu 53 tuổi và chú rể 57 tuổi ở xã Đức Hòa Hạ, huyện Hạ Hòa, Long An.


Đám cưới của cặp vợ chồng già đã gây xôn xao khắp xóm làng những ngày qua.
Có người mừng cho đôi vợ chồng già từ nay rau cháu có nhau, tuổi già được vui vầy nhưng cũng không ít người dị nghị.

Nhân vật chính của câu chuyện này là chú rể Văn Cưng và cô dâu Diễm Thúy.
'Anh cưới tôi bằng chiếc nhẫn, sợi dây chuyền, đôi bông tai bằng vàng 18K và 5 triệu tiền cưới.

Tôi còn hạnh phúc hơn nhiều cô gái trẻ chưa chồng chưa con.
Anh thương yêu mình, cưới hỏi đàng hoàng chẳng có gì mà ngại với bà con lối xóm, chẳng dại gì mà không gật đầu đồng ý', bà Thúy tâm sự.

Ngày cưới của ông bà là 31/12/2012 với sự góp mặt đầy đủ của bạn bè, con cái, bà con trong gia quyến.

Cặp vợ chồng già cũng tổ chức vài mâm cỗ để họ hàng và những người thân quen cùng nhau nâng ly rượu mừng chúc cho hạnh phúc dù muộn màng của họ.
085827_damcuoixonxao2.jpg
Hình cưới đẹp không thua các đôi trẻ
Kể về câu chuyện của mình, bà Thúy cho biết, chồng mất đã 2 năm, con trai duy nhất lên TP HCM sinh sống, làm việc.

Qua quen biết, một người bạn của bà quyết định mai mối bà với cho ông Cưng (chia tay vợ đã 12 năm) làm nghề bán vé số để ông bà nương tựa nhau tuổi già.

Lần đầu tiên gặp gỡ, 2 người đã tìm thấy sự đồng cảm dù còn ngại ngần.

'Tối đó, tôi về nằm gác tay lên trán suy nghĩ, rồi đi đến quyết định cưới bà ngay kẻo lỡ', ông Cưng nhớ lại.

Tuy nhiên, vì hàng xóm xôn xao bàn tán nên 2 người cũng đắn đo mãi rồi mới tiến tới hôn nhân dù con cháu hết lòng ủng hộ.

> Gần 100 tuổi, cụ ông vẫn tha thiết làm... chú rể
> Vợ chồng già cùng chết vì không thể sống thiếu nhau





 
Back
Top