Gợi ý giới thiệu Mô Hình Chiến Lược "Mô Hình Nuôi 4 Loài Thủy Sản Kinh Tế " (Ốc Đắng, Tép, Cá, Cua)"
Nguồn tư liệu của anh Bùi Quang Võ ở Hợp Tác Xã Tâm Phú Đức, phường 9 thành phố Vĩnh Long đã tổng kết qua những chuyến đi tham quan thực tế về một số mô hình nuôi thủy sản của nông dân ở Miền Nam Thái Lan rất phù hợp với Việt Nam.
Tên tiếng Anh:
Strategic Model for Four Aquatic Treasures
Slogan:
"Biến Quà Tặng Thiên Nhiên Thành Thịnh Vượng Bền Vững"(Transforming Nature’s Gifts into Sustainable Prosperity)
Giới thiệu mô hình
Mô hình chiến lược "Nuôi 4 Loài Thủy sản Kinh tế" là giải pháp bền vững và dễ áp dụng tại các vùng nông thôn hoặc khu vực thiếu tài nguyên. Các loài ốc, tép, cá, và cua trong mô hình đều dễ sinh sản tự nhiên, không đòi hỏi kỹ thuật phức tạp gì hết, nhưng lại dễ phù hợp với điều kiện của các địa phương đang còn khó khăn về vốn và hiệu quả quả trong nuôi trồng thủy sản.Vài câu vè nghe cho vui nhà.
+ Anh nuôi ốc bươu đen em chen thêm con ốc Đắng, Ốc con tuy nhỏ mà lại được Thắng khen về đường lợi lộc.+ Anh tạm bỏ tôm càng xanh, anh đành ôm con tép nhỏ.. cho nó nhàng, Tép rong lan tỏa, cho thỏa tiền vô là anh sẽ tô lại con Tôm càng với em.
+ Anh ơi. Anh Nuôi cá khác làm chi, sao mình không đi nuôi con Rô phi cho nó hợp. Cá khỏe không lo, nhưng tiền to luôn vào túi...
+ Nuôi cua đồng dễ thôi, không lo chi thức ăn. Cua đồng dễ nuôi, khi lôi thôi cua cũng lớn. Cua lớn nhưng tiền vẫn vô nhanh - phú quý đến cũng thật là nhanh.
Có thể xem "4 Loài Thủy sinh Tứ Bửu" Là Một Đòn Bẩy Chiến Lược của Ngành Thủy Sản Việt Nam và Thế giới.
Nhớ lại những Câu ca dao của ông bà người xưa đã có nói đi về quê là rất dễ dàng sinh sống, các sản vật thủy sản phong phú ở đâu cũng có cái để ăn cho con người, như về sông thì ăn cá, về đồng thì ăn cua.Và câu bắt cua xúc tép, ý nói mấy loài này tuy không có nuôi vì nó không mấy có giá trị đáng kể, nhưng lại là cái để cho con người có cái ăn dễ dàng, chỉ cần đi bắt ở dưới nước là có sẵn chứ không phải nuôi.
Ý tôi muốn nói là ông bà mình đã có cái nhìn thật xa là khi trong đời sống khó nếu như biết chịu khó sẽ ló cái khôn để vượt qua được cái khó dễ dàng.
Tìm được sự quý giá có giá trị như Ốc Tép Cá Cua. Bây giờ suy nghĩ lại càng thấy tầm quan trọng của 4 loài thủy sinh tứ bửu này.
Thật đúng là ông bà mình đã có cái nhìn sâu xa và đầy trí tuệ. Bốn loài thủy sinh Ốc, Tép, Cá, Cua mà chúng tôi tạm gọi là 4 Loài Thủy Sinh Tứ Bửu.
Bốn loài thủy sinh như là Ốc, Tép, Cá, Cua. Không chỉ là nguồn thực phẩm dồi dào mà còn là biểu tượng của sự kiên trì và chịu khó trong cuộc sống.
Chỉ cần biết tận dụng những tài nguyên sẵn có, con người có thể vượt qua được những khó khăn về chi phí thức ăn công nghiệp và dễ tìm thấy lại giá trị đích thực. Điều này không chỉ đúng trong quá khứ mà còn rất quan trọng và đúng cho cuộc sống hiện tại.
Ngẫm lại, ta mới thấy sự quý giá và tầm quan trọng của những loài tưởng chừng như nhỏ bé và không mấy giá trị, nhưng ngược lại là bô cùng có giá trị. Ông bà mình quả thật là những người rất hiểu biết và có tầm nhìn xa.
Câu ca dao của ông bà người xưa có nói đi về quê là rất dễ dàng sinh sống, các sản vật thủy sản phong phú ở đâu cũng có cái ăn cho con người ăn cá về đồng ăn cua câu bắt cua xúc tép, ý nói mấy loài này tuy không có nuôi vì nó không mấy có giá trị đáng kể, nhưng lại là cái để cho con người có cái ăn dễ dàng, chỉ cần đi bắt ở dưới nước là có sẵn chứ không phải nuôi.
Ý tôi muốn nói là ông bà mình đã có cái nhìn thật xa là trong cái đời sống khó nếu như biết chịu khó sẽ ló cái khôn, dễ tìm được sự quý giá có giá trị như Ốc Tép Cá Cua.
Bây giờ suy nghĩ lại càng thấy tầm quan trọng của 4 loài thủy sinh tứ bửu này.
Thật đúng là ông bà mình đã có cái nhìn sâu xa và đầy trí tuệ.
Bốn loài thủy sinh Ốc, Tép, Cá, Cua không chỉ là nguồn thực phẩm dồi dào mà còn là biểu tượng của sự kiên trì và chịu khó trong cuộc sống.
Chỉ cần biết tận dụng những tài nguyên sẵn có, con người có thể vượt qua những khó khăn và tìm thấy giá trị đích thực.
Điều này không chỉ đúng trong quá khứ mà còn rất quan trọng trong cuộc sống hiện tại.Ngẫm lại, ta mới thấy sự quý giá và tầm quan trọng của những điều tưởng chừng như nhỏ bé và không mấy giá trị, nhưng biết khai thác phù hợp là vô cùng có giá trị, con gì không cần cho ăn thường mà nó vẫn lớn vẫn sinh sản. Ông bà mình quả thật là những người rất hiểu biết và có tầm nhìn xa.
Chăn nuôi là cần con giống, nên loài nào chỉ cần ăn những vật nhỏ li ti như tảo xanh tảo lục, phiêu sinh vật phù du mà dễ mang lại lợi ích cho con người thật nhiều Con Giống.
Mọi người có hoàn toàn đồng ý với chúng tôi về việc nhận ra giá trị to lớn từ những điều tưởng chừng nhỏ bé của những loại Sản xuất ra nhiều con giống vô cùng dễ dàng mà hình như nông dân nào cũng thực hiện được.
Ông bà mình đã dạy cho chúng ta bài học về sự kiên nhẫn và biết cách tận dụng tối đa những tài nguyên sẵn có trong tự nhiên. Nhờ vào sự hiểu biết và kinh nghiệm dân gian nên ông bà mình đã xây dựng được một cuộc sống bền vững và hài hòa với thiên nhiên.
Bốn loài thủy sinh này không chỉ là nguồn thực phẩm mà còn là biểu tượng của sự sáng suốt trong việc khai thác tài nguyên và sự gắn kết với môi trường. Chúng ta có thể học hỏi rất nhiều từ cách sống này để áp dụng vào cuộc sống hiện đại, đảm bảo sự phát triển bền vững cho tương lai. Chắc hẳn đó sẽ là những câu chuyện thú vị và ý nghĩa
Tuyệt vời! Tôi rất hứng thú mà muốn nghe những câu chuyện và kinh nghiệm của các bạn về việc khai thác và sử dụng các loài thủy sản này.
Hãy chia sẻ những trải nghiệm thú vị và ý nghĩa mà bạn có. Điều này không chỉ giúp chúng ta tôi hiểu thêm về văn hóa và cuộc sống của bạn mà còn là cơ hội để chúng ta cùng khám phá và học hỏi lẫn nhau.
Bắt đầu từ đặt vấn đề khi cuộc sống gặp khó khăn ở đô thị thì nên về đồng ruộng là sẽ dễ dàng sinh sống.
Vấn đề là khó sống và dễ sống ở đồng ở sông hiện nay là do tầm nhìn chưa tới, có thể vì đi tìm cái xa mà không nhận ra được 4 loài này trước mắt. Bây giờ nếu như ai có cảm nhận 4 loài này là vô cùng có giá thì mới cảm thấy sự sâu sắc từ mấy câu ca dao xưa.
Thật là một đề tài đáng suy ngẫm!
Quả thật, khi đối mặt với những khó khăn của đời sống kinh tế ở đô thị, thì việc trở về đồng ruộng, gần gũi với thiên nhiên có thể mang lại sự bình yên và dễ dàng được cải thiện trong đời sống kinh tế đang cần cơm gạo áo tiền.
Câu ca dao xưa đã phản ánh rõ nét cuộc sống phù hợp của người xưa, với sự hiểu biết sâu sắc về việc tận dụng tài nguyên thiên nhiên một cách bền vững và vô cùng khôn ngoan.
Những câu ca dao như:
- "Ăn cá về đồng, ăn cua câu, bắt cua xúc tép"
- "Làm ruộng nương là sống thảnh thơi"
Câu ca dao của ông bà người xưa có nói đi về quê là rất dễ dàng sinh sống, các sản vật thủy sản phong phú ở đâu cũng có cái ăn cho con người ăn cá về đồng ăn cua câu bắt cua xúc tép, ý nói mấy loài này tuy không có nuôi vì nó không mấy có giá trị đáng kể, nhưng lại là cái để cho con người có cái ăn dễ dàng, chỉ cần đi bắt ở dưới nước là có sẵn chứ không phải nuôi.
Ý tôi muốn nói là ông bà mình đã có cái nhìn thật xa là trong cái đời sống khó nếu như biết chịu khó sẽ ló cái khôn, dễ tìm được sự quý giá có giá trị như Ốc Tép Cá Cua.
Bây giờ suy nghĩ lại càng thấy tầm quan trọng của 4 Loài Thủy sinh Tứ Bửu này.
Thật đúng là ông bà mình đã có cái nhìn sâu xa và đầy trí tuệ. Bốn loài thủy sinh Ốc, Tép, Cá, Cua không chỉ là nguồn thực phẩm dồi dào mà còn là biểu tượng của sự kiên trì và chịu khó trong cuộc sống. Chỉ cần biết tận dụng những tài nguyên sẵn có, con người có thể vượt qua những khó khăn và tìm thấy giá trị đích thực.
Điều này không chỉ đúng trong quá khứ mà còn rất quan trọng trong cuộc sống hiện tại.
dào mà còn là biểu tượng của sự kiên trì và chịu khó trong cuộc sống. Chỉ cần biết tận dụng những tài nguyên sẵn có, con người có thể vượt qua những khó khăn và tìm thấy giá trị đích thực.
Điều này không chỉ đúng trong quá khứ mà còn rất quan trọng trong cuộc sống hiện tại.Ngẫm lại, ta mới thấy sự quý giá và tầm quan trọng của những điều tưởng chừng như nhỏ bé và không mấy giá trị, nhưng biết khai thác phù hợp là vô cùng có giá trị, con gì không cần cho ăn thường mà nó vẫn lớn vẫn sinh sản. Ông bà mình quả thật là những người rất hiểu biết và có tầm nhìn xa.
Chăn nuôi là cần con giống, nên loài nào chỉ cần ăn những vật nhỏ li ti như tảo xanh tảo lục, phiêu sinh vật phù du là dễ mang lại lợi ích cho con người.
Bà con mình có hoàn toàn đồng ý với chúng tôi về việc nhận ra giá trị to lớn từ những điều tưởng chừng nhỏ bé. Ông bà mình đã dạy cho chúng ta bài học về sự kiên nhẫn và biết cách tận dụng tối đa những tài nguyên sẵn có trong tự nhiên. Nhờ vào sự hiểu biết và kinh nghiệm, ông bà đã xây dựng được một cuộc sống bền vững và hài hòa với thiên nhiên.
Bốn loài thủy sinh này không chỉ là nguồn thực phẩm mà còn là biểu tượng của sự sáng suốt trong việc khai thác tài nguyên và sự gắn kết với môi trường. Chúng ta có thể học hỏi rất nhiều từ cách sống này để áp dụng vào cuộc sống hiện đại, đảm bảo sự phát triển bền vững cho tương lai.
Một số Đặc điểm chiến lược cơ bản. Dưới đây là 5 điểm chiến lược của mô hình.
Nuôi trồng thủy sản (NTTS) là một lĩnh vực quan trọng, không chỉ cung cấp nguồn thực phẩm mà còn giúp bảo vệ môi trường, tái tạo đàn giống và tạo ra những lợi ích kinh tế đáng kể. Dưới đây là 5 điểm chiến lược của Mô hình Nuôi 4 Loài trong nuôi trồng thủy sản:- 1. Khả năng sinh sản dễ dàng: Các loài thủy sản có khả năng sinh sản tự nhiên tốt, giúp duy trì và phát triển quần thể mà không cần can thiệp nhiều.
- 2. Không cần rải thức ăn mỗi ngày: Một số loài thủy sản có thể tự tìm kiếm thức ăn trong môi trường nuôi, giảm bớt công sức và chi phí cho người nuôi.
- 3. Ít công chăm sóc: Các loài thủy sản thường không đòi hỏi nhiều công chăm sóc hàng ngày, tạo điều kiện thuận lợi cho người nuôi.
- 4. Sản phẩm nuôi là thức ăn phổ biến: Thủy sản là nguồn thực phẩm được ưa chuộng và có nhu cầu cao trên thị trường.
- 5. Hiệu quả kinh tế cao: Với mức đầu tư ban đầu thấp và diện tích khai thác hợp lý, mô hình Nuôi 4 loài trồng thủy sản này thể mang lại lợi nhuận cao dễ dàng.
Mục tiêu chính của mô hình:
Chi phí đầu tư thấp, chỉ cần 5 triệu - 7 triệu để mua 1 - 2 bể bạt HDPE giá 1 triệu với khổ 3x4×1m = 12 m2 là đủ cung cấp cho đạm và rau xanh tạm đủ cho 2 - 3 nhân khẩu
- Lắp 2 bể bạt HDPE với chi phí trung bình 2 triệu là được 24 m2 bể, là có thể cung cấp nguồn thực phẩm giàu đạm sẵn có từ nguồn thức ăn tự nhiên, tiết kiệm chi phí thức ăn, đủ cung cấp cho đạm và rau xanh cho 3 - 4 nhân khẩu. Đầu tư từ 12 triệu đến 15 triệu là đủ cung cấp thức ăn quanh năm cho 3 - 5 nhân khẩu. Mô hình lớn hơn là dành cho sản xuất làm kinh tế cho khu vực hoặc cụm nhóm tập thể nhiều hộ.
- Tự cung cấp đủ đạm và tạo thu nhập ổn định cho nông dân từ các sản phẩm có giá trị kinh tế từ sản phẩm dư ra để cung cấp cho thị trường. Khuyến khích nuôi cá để phơi khô đối với nơi xa vùng dân cư để tiện bảo quản và mang ra chợ. Riêng tép nên có máy sục khí sục Ôxy để cung tép sống có giá trên 100.000 Đ/kg
- Phục hồi và bảo vệ môi trường nước ngọt tự nhiên đối với những khu vực đồi núi có Suối nước có phổ biến nhiều trâu bò, dê, cừu sẽ thải phân ra môi trường và sẽ dễ dàng làm ô nhiễm nguồn nước Suối. Khi phân bò được thu mua với giá cao phù hợp thì sẽ cải thiện đời sống kinh tế và khuyến khích người dân thu gom triệt để hơn. Chủ trương đổi phân bò lấy thực phẩm. Đây là chiến lược góp phần bảo vệ môi trường bền vững kết hợp được 2 lợi ích giữa cộng đồng và bộ phận dân cư người dân tộc thiểu số.
Lợi ích của mô hình.
1. Khả năng sinh sản tự nhiên cao:- Các loài ốc như ốc Đắng là chính vì dễ tìm giống, ốc Vặn, ốc Quắn, ốc Rạ, ốc Bưu Vàng, ốc Bàng Quang, Vẹm và Hến đều sinh sản tự nhiên cho nhiều cá thể đời sau rất cao về số lượng sinh sản rất dễ dàng, nhưng lại không cần can thiệp kỹ thuật nhân tạo, giảm phụ thuộc vào con giống từ xa. Xem Phụ lục 4 Ốc Bàng Quang là cuối cùng.
- Cá Rô Phi và Cá Rô Đồng và các loài cá nước ngọt phổ biến như cá trê, cá mè, cá lóc cũng dễ nuôi và sinh sản tốt.
- Cua Đồng lớn nhanh, sinh khối đạt yêu cầu, cung cấp lượng đạm lớn cho gia đình và chăn nuôi gia cầm, gia súc.
- Sử dụng phân gia súc như phân trâu bò, dê, cừu, cây cỏ tạp, rơm khô, phân xanh để ủ phân hoai hữu cơ để bón vào nước làm chất dinh dưỡng nuôi Tảo vi sinh vật và tạo thức ăn tự nhiên cho thủy sản.
- Tận dụng mặt nước và ánh sáng để trồng nuôi Rau Muống, Bèo Cám để làm thức ăn cho cá. Bèo có thể nuôi Ruồi Lính Đen để thu hoạch Nhộng làm thức ăn chăn nuôi.
- Kết hợp nuôi trùn quế và ruồi lính đen để làm thức ăn bổ sung giàu đạm.
- Tận dụng hồ thủy điện, hồ nhân tạo, sông suối tự nhiên làm khu vực nuôi thả.
- Mô hình phù hợp với nhiều vùng địa lý, từ miền núi ở miền Trung như Ninh Thuận, ở đồng bằng Cửu Long như An Giang. Nói chung là từ đồng bằng đến các vùng ven biển nước ngọt có nuôi nhiều trâu bò và có nhiều cỏ tạp.
- Dễ dàng nhân rộng, đặc biệt tại các khu vực nghèo khó thiếu đạm động vật và thu có thu nhập thấp.
Các 4 loài thủy sản trong mô hình.
1. Ốc:- Ốc Đắng, Ốc Vặn, Ốc Quắn, Ốc Rạ: Sinh trưởng nhanh, dễ đẻ con, thích nghi, tạo giá trị kinh tế cao. Ngoài ra có thể nuôi thêm con Ốc Núi cho nơi đồi núi có nhiều cây xanh hốc đá, nhiều lá cây khô nhưng khan hiếm nước. Ngoài Ninh Thuận ra là có thể áp dụng ở nơi khác như ở Núi Bà Đen ở Tây Ninh, các Núi Sam, Núi Cấm ở Tịnh Biên và núi ở Tri Tôn tỉnh An Giang.
- Vẹm, Hến: Có thể nuôi kèm để tăng đa dạng sản phẩm và tận dụng nguồn thức ăn tự nhiên.
- Các loài tép đồng dễ sinh sản tự nhiên, cung cấp thực phẩm tươi sạch và làm thức ăn bổ sung cho gia cầm, gia súc. Tép yêu cầu nước ngọt sạch. Đồng bằng sông Cửu Long có rất nhiều nơi có nước ngọt như Tiền Giang, Long An, Bến Tre, Vĩnh Long, Đồng Tháp, Kiên Giang, An Giang, Cần Thơ và Hậu Giang.
- Các giống cá rô phi: Thích nghi tốt, sinh trưởng nhanh, dễ tiêu thụ.
- Một số loài cá nước ngọt khác phù hợp từng địa phương như cá mè, cá lóc, cá trê.
Cá rô phi.
Ngành cá rô phi dễ nuôi với quy mô lớn với sản lượng đạt 6 triệu tấn mỗi năm trên thế giới.- Đây là loài cá nuôi quan trọng hành thứ 2 trên thế giới, chỉ sau cá chép. Thị trường cá rô phi toàn cầu hiện nay khoảng 7,9 tỷ USD và dự báo sẽ tăng lên 9,2 tỷ USD vào năm 2027. Cá rô phi, có nguồn gốc từ châu Phi và Trung Đông, thường được gọi là “gà thủy sinh” và hiện được nuôi rộng rãi ở khoảng 145 quốc gia trên toàn thế giới.
- Cá rô phi là một loài linh hoạt, khỏe mạnh và phát triển nhanh, có thể nuôi trong nhiều môi trường và hệ thống nuôi khác nhau, từ ao với chi phí thấp, sử dụng phụ phẩm nông nghiệp, đến các hệ thống thâm canh như nuôi trồng thủy sản tuần hoàn (RAS) và Biofloc. Mặc dù có khoảng 70 loài cá rô phi, nhưng sản lượng thương mại chủ yếu tập trung vào ba loài, trong đó cá rô phi sông Nile (Oreochromis niloticus) đã đóng góp vào sự gia tăng đáng kể của sản lượng cá rô phi toàn cầu từ nuôi trồng thủy sản của nước ta trong nhiều thập kỷ.
Loài cá này không chỉ đóng góp vào nguồn thực phẩm phong phú mà còn mang lại lợi ích kinh tế lớn cho người nuôi, đồng thời giảm áp lực lên các nguồn cá tự nhiên và bảo vệ môi trường ở Việt Nam.
- Cua đồng: Nhanh lớn, giàu dinh dưỡng, dễ bán và làm thức ăn bổ sung chăn nuôi. Ngoài ra Ngoài ra có thể nuôi thêm con Cua Núi cho nơi đồi núi có nhiều cây xanh hốc đá, nhiều lá cây khô nhưng khan hiếm nước như Núi Bà Đen ở Tây Ninh, các đồi khu Núi Sam, Núi Cấm ở Tịnh Biên và núi ở Tri Tôn tỉnh An Giang.
Mặt nước nuôi và vùng tiềm năng.
1. Hồ nước có màu xanh:- Hồ thủy điện: Hồ Tà Đùng, Hồ Thác Bà...
- Hồ nhân tạo: Hồ Núi Cốc, Hồ Dầu Tiếng...
- Những ao hồ nước ngọt chưa khai thác hoặc khai thác không hiệu quả.
- Sông La Ngà, sông Đồng Nai, sông Bé...
- Tận dụng các vùng nước tự nhiên hoặc các khu vực đào ao nuôi.
Kỹ thuật nuôi và chế biến
1. Nguồn thức ăn:- Sử dụng cỏ khô, phân xanh, rơm mục để ủ vi sinh tạo dinh dưỡng cho tảo và thủy sản.
- Kết hợp nuôi trùn quế, ruồi lính đen để làm thức ăn bổ sung.
- Hướng dẫn nông dân cách sản xuất chế biến các món đơn giản phù hợp với khẩu vị địa phương từ ốc, tép, cá, cua.
- Sản xuất bột xay từ cua, ốc để làm thức ăn chăn nuôi gia cầm và gia súc (chim cút, gà, heo).
Tiềm năng phát triển kinh tế
1. Cung cấp đạm tự nhiên:- Giúp giải quyết bài toán thiếu đạm ở các vùng nông thôn, đặc biệt là nơi khan hiếm thực phẩm động vật.
- Tạo nguồn thu nhập ổn định từ việc bán thủy sản tươi hoặc sản phẩm chế biến.
- Góp phần bảo vệ hệ sinh thái nước ngọt, tận dụng nguồn tài nguyên tự nhiên.
- Là bàn đạp kinh tế giúp các địa phương nghèo vươn lên phát triển bền vững.
Slogan và tài liệu hướng dẫn
Tên gọi chính thức:Mô Hình Chiến Lược: Nuôi 4 Loài Thủy Sản Kinh Tế (Ốc Đắng, Tép, Cá, Cua)Tên tiếng Anh:Strategic Model for Four Aquatic Treasures
Slogan:"Biến Quà Tặng Thiên Nhiên Thành Thịnh Vượng Bền Vững"
(Transforming Nature’s Gifts into Sustainable Prosperity)
Mô Hình Chiến Lược Nuôi "Bốn Loài " Thủy Sản Nước Ngọt.
(Ốc Đắng, Tép, Cá, Cua - Giải pháp bền vững cho phát triển kinh tế nông hộ)Giới thiệu tổng quan
Mô hình nuôi thủy sản nước ngọt với tên gọi “Bốn Con” là một chiến lược kinh tế thông minh, ít vốn đầu tư và tận dụng tối đa nguồn tài nguyên tự nhiên như rong tảo, vi sinh vật phù du trong nước màu xanh. Phương pháp này không chỉ giảm chi phí thức ăn công nghiệp mà còn tạo ra một hệ sinh thái bền vững, giúp nông dân có thể dễ dàng triển khai với nguồn lực hạn chế.Lợi ích nổi bật:
- Tận dụng nguồn thức ăn tự nhiên: rong, tảo và phù du.
- Không cần con giống từ xa nhờ các loài thủy sản dễ sinh sản tự nhiên.
- Chi phí đầu tư thấp, phù hợp với các vùng nông thôn thiếu vốn.
- Môi trường chăn nuôi tự nhiên tạo ra thực phẩm sạch, an toàn.
Các loài thủy sản chiến lược.
1. Ốc: (nên Tạo Thật Nhiều Giá Thể cho Ốc Đeo Bám) Ốc Đắng, Ốc Vặn, Ốc Quắn, Ốc Rạ.có thói quen bò lên giá thể để kiếm ăn
- Đặc điểm: Sinh sản nhanh, ăn rong tảo tự nhiên, có giá trị dinh dưỡng cao.
- Ứng dụng: Làm thực phẩm cho người và xay nhuyễn làm thức ăn gia súc, gia cầm.
Tép giống là tép nhỏ được thu hoạch từ ruộng đồng để thả dưới ruộng mà nuôi dưỡng tiếp để thành tép Thương Phẩm như hình phía dưới.
Tép được nuôi vỗ béo để thành tép Thương Phẩm có giá trị cao.
- Phù hợp với môi trường ao, hồ tự nhiên.
- Sinh sản tự nhiên quanh năm, ít cần chăm sóc.
- Thu hoạch hoặc mua tép non, tép nhỏ từ ao ruộng về nuôi tiếp từ 2 - 4 tháng là bắt đầu tuyển tép lớn ra.
- Loài phổ biến: Cá rô phi, cá chép, cá mè, cá trôi, cá tra.
- Đặc điểm: Thích nghi tốt, sinh trưởng nhanh, dễ nuôi ở nước màu xanh.
- Loài chính: Cua đồng.
- Lợi thế: Lớn nhanh, giá trị kinh tế cao, nguồn cung cấp đạm phong phú.
Ý nghĩa của nước màu xanh trong mô hình.
Nước màu xanh là đặc điểm nổi bật của mô hình, tạo môi trường lý tưởng cho sự phát triển của thủy sản.Nguồn gốc màu xanh của nước:
- Phát sinh từ sự phát triển của tảo lục, vi sinh vật phù du tự nhiên khi môi trường nước giàu dinh dưỡng.
- Các chất dinh dưỡng trong nước được cung cấp từ việc ủ rơm, bã mía, cám gạo với men vi sinh EM.
1. Tạo thức ăn tự nhiên: Nước có màu xanh là do có nhiều Rong, Tảo và vi sinh vật là nguồn thức ăn dồi dào và dễ tiêu hóa cho thủy sản, giúp không tốn hoặc giảm chi phí thức ăn công nghiệp.
2. Cân bằng hệ sinh thái: Tảo xanh hấp thụ khí CO₂, cung cấp oxy và ổn định chất lượng nước.
Nuôi trồng Bèo Tấm có lưới phía dưới để không bị cá ăn. Vừa cản bớt nắng gió để giảm thất thoát nước. khi cho cá ăn chỗ khác thì sẽ vớt Bèo Tấm ra ngoài.
Trồng Bèo Tai Tượng, Rau Mát. Rau Muống để tiêu thụ chất thải trong bể nuôi. Rau muống nhiều cũng có thể bán bớt hoặc trộn với cám, nhộng rồi lính đen để làm cám viên nuôi cá trê cá trám. Rau muống nhiều băm nhỏ nuôi nhiều loại cá khác.
3. Tăng hiệu quả kinh tế: Năng suất thủy sản tăng nhờ tận dụng nguồn dinh dưỡng tự nhiên.
4. Kỹ thuật tạo nước màu xanh.
Để tạo nước màu xanh hiệu quả, cần thực hiện các bước sau:
Nguyên liệu:
Rơm khô, bã mía, cám gạo, men vi sinh EM.
Quy trình:
1. Chuẩn bị nguyên liệu: Rơm khô, bã mía được cắt nhỏ và phơi khô.
2. Ủ nguyên liệu:
Trộn rơm, bã mía và cám gạo theo tỷ lệ 5:3:2.
Thêm nước sạch và men vi sinh EM, đảm bảo độ ẩm khoảng 60-70%.
Ủ trong hố kín hoặc thùng chứa trong 7-10 ngày.
3. Bón nguyên liệu đã ủ vào ao nuôi:
Trải đều hỗn hợp đã ủ xuống đáy ao hoặc rải quanh mép nước.
Sau 3-5 ngày, nước ao sẽ chuyển sang màu xanh do sự phát triển của tảo lục và phù du vi sinh.
5. Thiết kế mô hình ao nuôi.
1. Kích thước ao:Diện tích nhỏ nhất là 20 m² bằng Bể Bạt cho những nơi ít nước. Khuyến khích nên có từ 50m² đến 100m². Phù hợp nơi thuận nguồn nước và tập trung nhân khẩu khoảng 10 người là nên xây dựng bể từ 500-1.000 m², độ sâu nước từ 1,2-1,5 m.
2. Chất lượng nước:
Nước sạch, không ô nhiễm, có dòng chảy nhẹ.
Ưu tiên nước từ hồ thủy điện, hồ nhân tạo (hồ Tà Đùng, hồ Núi Cốc), hoặc sông La Ngà.
3. Bố trí khu vực nuôi:
Xây ao nhỏ dành riêng cho ốc và tép, ao lớn hơn cho cá và cua. Hoặc trong bể nuôi Tép Cua là có thể nuôi cá trong Vèo nhỏ.
4. Hệ thống Oxy hóa nước:
Sử dụng quạt nước hoặc máy sục khí nếu cần thiết để duy trì đủ oxy trong nước.
6. Lợi ích kinh tế và xã hội.
Giảm chi phí: Tận dụng được thức ăn tự nhiên sẽ giúp giảm đến 70% chi phí thức ăn công nghiệp.
Tăng thu nhập: Năng suất cao và đầu ra ổn định cho thị trường địa phương.
Phát triển bền vững: Sử dụng tài nguyên tái tạo và tận dụng tối đa nguồn phụ phẩm nông nghiệp.
Cải thiện dinh dưỡng: Cung cấp thực phẩm giàu đạm, sạch và an toàn cho khu vực dân cư người Dân tộc thiểu số sống thưa thớt trên đồi núi ở đất liền và hải đảo.
7. Kết luận.
Mô hình chiến lược "Nuôi Bốn Loài Thủy sản Nước ngọt" là một giải pháp bền vững và hiệu quả. Chỉ cần đầu tư từ 10 triệu đến 15 triệu là có thể đảm bảo thức ăn quanh năm cho 3 - 4 nhân khẩu. Dự án mang lại lợi ích lớn tuy đầu tư nhỏ, lợi cả về kinh tế lẫn môi trường và cả tính nhân văn.
Chỉ cần với sự hỗ trợ từ kỹ thuật cơ bản và chi phí thấp, mô hình này phù hợp để nhân rộng ở các khu vực nông thôn, đặc biệt là các vùng thiếu thức ăn đạm.
Đặc biệt là quan tâm đến các đồng bào Dân tộc người thiểu số ở vùng xa vùng sâu vắng vẻ bị hạn chế giao thông.
Tận dụng nguồn nước sông suối để tích trữ trong những hồ bể nhân tạo để giúp người dân tự nuôi được những con ốc, con tép, con cá để làm thực phẩm.
Giúp người dân lắp đặt Hệ thống Điện Năng Lượng Mặt Trời để bơm nước nuôi cá.
Cá dư làm khô ăn dần hoặc bán ra để mua các nhu yếu phẩm khác
Chúc bà con mình thành công với gợi ý mô hình chiến lược kinh tế này
Phiên bản 2 :
Mô hình nuôi 4 loài thủy sản của ông Bùi Quang Võ ở Vĩnh Long.
1. Tổng quan:Mô hình "Nuôi Bốn Loài Thủy Sinh Tứ Bửu" bao gồm ốc, tép, cá, cua, là chiến lược nuôi trồng thủy sản nước ngọt với mục tiêu tối ưu hóa hiệu quả kinh tế và giúp nông dân thoát nghèo. Mô hình này tận dụng tối đa nguồn tài nguyên thiên nhiên, giảm phụ thuộc vào thức ăn công nghiệp và tận dụng các nguyên liệu sẵn có tại địa phương.
Cách thức vận hành mô hình:
A. Lựa chọn và nuôi từng loài thủy sản:
Ốc :+ Ốc để ăn như ốc Đắng và ốc Rạ:
Ốc Đắng: Phù hợp với môi trường nước ngọt tự nhiên, dễ sinh trưởng.
Ốc Rạ: Giống lai phát triển nhanh hơn, kích thước lớn hơn, học từ mô hình Trung Quốc và Đài Loan. Ngoài ra có ốc Suối, ốc Đá.
Ốc Len, ốc Hương : Ốc nước Mặn nên nuôi ốc Len, ốc Hương ở Bến Tre và Trà Vinh.
+ Ốc làm Thức ăn chăn nuôi.
Như ốc Bưu Vàng, ốc Bàng Quang, ốc Đinh.
Thậm chí nên nuôi luôn con ốc Bưu Vàng, ốc Đinh để làm thức ăn chăn nuôi.
Thức ăn: Tận dụng rau, cỏ mục, rơm rạ, lá khô, lục bình.
Điều kiện nuôi: Tạo dòng chảy và mưa nhân tạo để cung cấp oxy, giúp ốc sinh sản quanh năm.
Tép:
Môi trường nuôi: Thích hợp ở vùng nước ngọt có độ oxy cao, sạch như nuôi Tép Rong, Tép Gạo..
Thức ăn: Vi sinh tự nhiên được nuôi dưỡng bằng chất dinh dưỡng từ phù sa nhân tạo chủ yếu có được từ chất hữu cơ như nhánh cây khô, lá cỏ mục.
Kỹ thuật: Tạo canxi cho vỏ con Ốc và Tép bằng cách sục khí để bổ sung CO2 làm chất thành Can xi cung cấp cho ốc tép.
Cá:
Loài cá chủ đạo: Cá rô phi, cá lóc, cá trê, hoặc cá mè trắng.
Thức ăn: Sử dụng thức ăn tự nhiên như tảo vi sinh, cỏ mục, phế phẩm nông nghiệp.
Môi trường: Duy trì dòng chảy nhẹ để kích thích cá vận động và phát triển cơ bắp.
Cua:
Đối tượng chính là Nuôi Cua Đồng nước ngọt.
Nước Mặn thì Nuôi Loài Ba Khía, Cua Lông Cà Ra ở vùng nước Lợ của Long An, Tiền Giang, Bến Tre và Trà Vinh.
Môi trường nuôi: Ao nhỏ hoặc bể bạc có độ sâu vừa phải.
Thức ăn: Cua tự kiếm ăn từ nguồn vi sinh, kết hợp bổ sung cỏ khô hoặc lục bình.
Kỹ thuật: Thay nước định kỳ, tạo môi trường tự nhiên để tăng khả năng sinh trưởng. Môi trường nước cạn để dễ quan sát quản lý kiểm soát. Không phù hợp mực nước sâu vì khó kiểm soát được việc ăn lẫn nhau.
B. Nguồn thức ăn tự nhiên và phù sa nhân tạo:
1. Nguồn thức ăn:Sử dụng phân bò, cỏ mục, rơm rạ, lục bình, rau mát khô, và nhánh cây mục băm nhỏ, bèo tấm, rau muống, Khoai môn ngứa để làm chất dinh dưỡng tự nhiên.
Nuôi tảo và phù du từ phế phẩm nông nghiệp.
Phát triển thức ăn nhân tạo giúp bổ sung khi nguồn thức ăn tự nhiên khan hiếm.
2. Tạo phù sa nhân tạo:
Nguyên liệu: Rau củ, trái cây, thực vật khô như nhánh cây mục, lá cỏ khô, phân bò, phân gia súc gia cầm. Cần thiết nhập phân gà về ủ phân hữu cơ để đủ điều kiện tạo ra phù sa nhân tạo.
Quy trình: Xử lý và trộn nguyên liệu từ phân ủ hữu cơ để tạo chất dinh dưỡng tương tự phù sa tự nhiên từ mùa lũ.
C. Kỹ thuật hỗ trợ:
1. Dòng chảy và mưa nhân tạo:
Sử dụng hệ thống bơm nước và phun mưa để tăng cường oxy, giúp thủy sản phát triển nhanh và khỏe mạnh. Đặc biệt là cần thiết cho Tép Đẻ con.
2. Năng lượng tái tạo:
Lắp đặt hệ thống Điện năng lượng Mặt Trời, Thủy Điện Mini, Điện Gió ( Phong Điện) để vận hành máy bơm nước, sục khí oxy, điện sinh hoạt.
3. Kiểm soát chất lượng nước:
Sử dụng chất dinh dưỡng tự nhiên và giám sát thường xuyên để duy trì môi trường nước sạch. Lưu ý những nơi gần đất có sử dụng thuốc bảo vệ thực vật.
4. Thay đổi và thích nghi:
Định kỳ kiểm tra môi trường sống như Oxy, pH và các tiêu chuẩn nước của từng loài để điều chỉnh mô hình phù hợp với từng mùa hoặc thay đổi của thời tiết.
Lợi ích kinh tế và môi trường:
1. Kinh tế:
Tăng thu nhập cho nông dân thông qua sản lượng ổn định quanh năm.
Giảm chi phí đầu vào nhờ tận dụng phế phẩm nông nghiệp, phân bò, phân hữu cơ từ lá cây cỏ khô và cả phá. hóa hóa học.
2. Môi trường:
Giảm thiểu ô nhiễm nước nhờ mô hình nuôi trồng tự nhiên. Nước xả thải bể nuôi sẽ tận dụng trồng trọt.
Nói chung là tận dụng tài nguyên thiên nhiên, giảm sự phụ thuộc vào thức ăn công nghiệp và hóa chất.
3. Xã hội:
Giúp người dân không có ruộng đất tận dụng mặt nước sông, rạch, kênh, mương để nuôi trồng.
Hỗ trợ nông dân ở vùng nghèo nâng cao chất lượng cuộc sống.
Ứng dụng thực tiễn:
1. Mô hình nên xây dựng tại An Giang ở những nơi có nhiều bò và lá cây mục, Đồng Tháp, Hậu Giang, Vĩnh Long, Tiền Giang, Bến Tre, Cà Mau nơi có nước ngọt .. nói chung là nhiều tỉnh ở Đồng bằng sông Cửu Long có nước ngọt. ( ốc Đắng không hợp nước lợ )
Tạo Giá Thể cho Ốc Đeo Bám.
Đặc biệt như ở những nơi có nhiều lá Dừa, Lá Chuối Tươi Khô gì cũng được, Lá Bàng, Lá Sa Kê, nhánh cây, ống tre, ống lồ ồ chẻ hai để để làm Giá Thể cho Ốc đeo bám kiếm ăn dạng Biểu Sinh rất tốt.
Phù hợp với điều kiện vùng Đồng bằng sông Cửu Long, và những nơi có nguồn nước. Nguồn nước không yêu cầu phong phú, mà chỉ cần đủ nước là được vì lượng nước cung cấp nuôi thủy sản luôn ít nước hơn trồng cây. Chỉ nên trồng rau và thủy sinh là để hút chất thải và che nắng để giảm thất thoát. Những nơi hiếm nước thì dùng nước thải ở bể Tép để chuyển sang bề ốc và cá rô phi và cuối cùng bể cá trê rồi xả ra tưới cây hoặc cung cấp nước cho trồng Thủy Canh theo nước tuần hoàn tuần tự như sau
Tép --> Ốc --> Cá Rô Phi --> Cá Trê --> Để Tưới Cây hoặc cho Thủy Canh.
2. Chuyển giao kinh nghiệm:
Ông Bùi Quang Võ đã chia sẻ mô hình này chỉ dành riêng trên Diễn đàn Nông nghiệp Việt Nam mà thôi, chủ yếu để giúp các vùng đất có nhiều đá sỏi, địa hình đồi núi thiếu nước trồng trọt như Ninh Thuận sẽ tiếp cận được mô hình dễ áp dụng, nhiều thành công.
3. Phát triển lâu dài:
Kết hợp mô hình này với các chương trình dự án phát triển nông nghiệp bền vững, đồng thời mở rộng sang các giống loài thủy sản khác.
4. Là "4 Loài Cứu Sinh" cung cấp Đạm Động Vật dồi dào cho con người trong hoàn cảnh điều kiện sản xuất nông nghiệp khan hiếm nước ngọt không riêng gì ở Việt Nam.
Mô hình nuôi bốn con thủy sản của ông Bùi Quang Võ không chỉ là giải pháp kinh tế, mà còn là cách tiếp cận sáng tạo để bảo vệ môi trường và xây dựng nền nông nghiệp bền vững cho Việt Nam và một số đất nước có khi hậu nắng ấm và có nước ngọt.
Vài câu thư giãn cho vui nhà vui cửa trước khi mình xem tiếp nha Anh Chị Em thân mến.
Vài câu vè nghe cho vui nhà.
+ Anh nuôi ốc bươu đen em chen thêm con ốc Đắng, Ốc con tuy nhỏ mà lại được Thắng khen về đường lợi lộc.+ Anh tạm bỏ tôm càng xanh, anh đành ôm con tép nhỏ.. cho nó nhàng, Tép rong lan tỏa, cho thỏa tiền vô là anh sẽ tô lại con Tôm càng với em.
+ Anh ơi. Anh Nuôi cá khác làm chi, sao mình không đi nuôi con Rô phi cho nó hợp. Cá khỏe không lo, nhưng tiền to luôn vào túi...
+ Nuôi cua đồng dễ thôi, không lo chi thức ăn. Cua đồng dễ nuôi, khi lôi thôi cua cũng lớn. Cua lớn nhưng tiền vẫn vô nhanh - phú quý đến cũng thật là nhanh.
PHỤ LỤC 1 bổ sung :
1. Tổng quan.
Mô hình "Nuôi Bốn Loài thủy sản" của ông Bùi Quang Võ bao gồm ốc, tép, cá, và cua. Đây là một chiến lược nuôi trồng thủy sản nước ngọt, nhằm tối ưu hóa hiệu quả kinh tế và giúp nông dân thoát nghèo. Mô hình này tận dụng tối đa nguồn tài nguyên thiên nhiên, giảm phụ thuộc vào thức ăn công nghiệp và sử dụng các nguyên liệu sẵn có tại địa phương chủ yếu là tận dụng rác thải hữu cơ trong sinh hoạt, rác Chợ, phế phẩm nông nghiệp và thải hữu cơ của nhà máy.2. Cách thức vận hành mô hình.
A. Lựa chọn và nuôi từng loài thủy sản
Ốc (Ốc Đắng và Ốc Rạ):- Ốc Đắng: Phù hợp với môi trường nước ngọt tự nhiên, dễ sinh trưởng.
- Ốc Rạ: Giống lai phát triển nhanh hơn, kích thước lớn hơn, học từ mô hình Trung Quốc và Đài Loan.
- Thức ăn: Tận dụng rau, cỏ mục, rơm rạ, lá khô, lục bình.
- Điều kiện nuôi: Tạo dòng chảy và mưa nhân tạo để cung cấp oxy, giúp ốc sinh sản quanh năm.
- Môi trường nuôi: Thích hợp ở vùng nước có độ oxy cao, sạch.
- Thức ăn: Vi sinh tự nhiên được nuôi dưỡng bằng chất dinh dưỡng từ phù sa nhân tạo.
- Kỹ thuật: Tạo canxi cho vỏ bằng cách sục khí oxy, bổ sung CO2.
- Loài cá chủ đạo: Cá rô, cá lóc, cá trê, hoặc cá mè trắng.
- Thức ăn: Sử dụng thức ăn tự nhiên như tảo vi sinh, cỏ mục, phế phẩm nông nghiệp.
- Môi trường: Duy trì dòng chảy nhẹ để kích thích cá vận động và phát triển cơ bắp.
- Môi trường nuôi: Ao nhỏ hoặc bể bạc có độ sâu vừa phải.
- Thức ăn: Cua tự kiếm ăn từ nguồn vi sinh, kết hợp bổ sung cỏ khô hoặc lục bình.
- Kỹ thuật: Thay nước định kỳ, tạo môi trường tự nhiên để tăng khả năng sinh trưởng.
B. Nguồn thức ăn tự nhiên và phù sa nhân tạo.
1. Nguồn thức ăn:- Sử dụng cây cỏ dại khô mục, rơm rạ, lục bình, rau mát khô, và nhánh cây làm chất dinh dưỡng tự nhiên.
- Nuôi tảo và phù du từ phế phẩm nông nghiệp.
- Phát triển thức ăn nhân tạo giúp bổ sung khi nguồn thức ăn tự nhiên khan hiếm.
- Nguyên liệu: Rau củ, trái cây, thực vật khô.
- Quy trình: Xử lý và trộn nguyên liệu để tạo chất dinh dưỡng tương tự phù sa tự nhiên từ mùa lũ.
C. Kỹ thuật hỗ trợ
1. Dòng chảy và mưa nhân tạo:- Sử dụng hệ thống bơm nước và phun mưa để tăng cường oxy, giúp thủy sản phát triển nhanh và khỏe mạnh.
- Lắp đặt hệ thống năng lượng Mặt Trời để vận hành máy bơm nước, sục khí oxy.
- Sử dụng chất dinh dưỡng tự nhiên và giám sát thường xuyên để duy trì môi trường nước sạch.
- Định kỳ kiểm tra môi trường sống của từng loài để điều chỉnh mô hình phù hợp với từng mùa hoặc thay đổi của thời tiết.
3. Lợi ích kinh tế và môi trường
1. Kinh tế:- Tăng thu nhập cho nông dân thông qua sản lượng ổn định quanh năm.
- Giảm chi phí đầu vào nhờ tận dụng phế phẩm nông nghiệp.
- Giảm thiểu ô nhiễm nước nhờ mô hình nuôi trồng tự nhiên.
- Tận dụng tài nguyên thiên nhiên, giảm sự phụ thuộc vào thức ăn công nghiệp và hóa chất.
- Giúp người dân không có ruộng đất tận dụng mặt nước sông, rạch, kênh, mương để nuôi trồng.
- Hỗ trợ nông dân ở vùng nghèo nâng cao chất lượng cuộc sống.
4. Ứng dụng thực tiễn.
1. Mô hình tại An Giang:- Phù hợp với điều kiện vùng Đồng bằng sông Cửu Long, nơi có nguồn nước phong phú.
- Ông Bùi Quang Võ đã chia sẻ mô hình này rộng rãi trên Diễn đàn Nông nghiệp Việt Nam, giúp các vùng khác áp dụng thành công.
- Kết hợp mô hình này với các chương trình phát triển nông nghiệp bền vững, đồng thời mở rộng sang các giống loài thủy sản khác.
Cá chủ đạo ưu tiên là cá rô phi, sau đó là rô đồng và cá nào không cần cám công việc. Chỉ cần bón phân hữu làm phù sa nhân tạo có tảo vi sinh vật cho 4 loài thủy sản quý này, quý ở chỗ dễ tạo ra thức ăn vi sinh vật nên giảm chi phí thức ăn công nghiệp.
Dưới đây là bản bổ sung và chi tiết hơn cho mô hình "Nuôi Bốn Con" của ông Bùi Quang Võ với các thông tin mới bạn cung cấp:
1. Tổng quan.
Mô hình "Nuôi Bốn Con" của ông Bùi Quang Võ bao gồm ốc, tép, cá, và cua. Đây là một chiến lược nuôi trồng thủy sản nước ngọt, nhằm tối ưu hóa hiệu quả kinh tế và giúp nông dân thoát nghèo. Mô hình này tận dụng tối đa nguồn tài nguyên thiên nhiên, giảm phụ thuộc vào thức ăn công nghiệp và sử dụng các nguyên liệu sẵn có tại địa phương.2. Cách thức vận hành mô hình
A. Lựa chọn và nuôi từng loài thủy sản
Ốc (Ốc Đắng và Ốc Rạ):- Ốc Đắng: Phù hợp với môi trường nước ngọt tự nhiên, dễ sinh trưởng.
- Ốc Rạ: Giống lai phát triển nhanh hơn, kích thước lớn hơn, học từ mô hình Trung Quốc và Đài Loan.
- Thức ăn: Tận dụng rau, cỏ mục, rơm rạ, lá khô, lục bình.
- Điều kiện nuôi: Tạo dòng chảy và mưa nhân tạo để cung cấp oxy, giúp ốc sinh sản quanh năm.
- Môi trường nuôi: Thích hợp ở vùng nước có độ oxy cao, sạch.
- Thức ăn: Vi sinh tự nhiên được nuôi dưỡng bằng chất dinh dưỡng từ phù sa nhân tạo.
- Kỹ thuật: Tạo canxi cho vỏ bằng cách sục khí oxy, bổ sung CO2.
- Loài cá chủ đạo: Cá rô phi, cá rô đồng, cá lóc, cá trê, hoặc cá mè trắng.
- Thức ăn: Sử dụng thức ăn tự nhiên như tảo vi sinh, cỏ mục, phế phẩm nông nghiệp. Ưu tiên nuôi các loài cá không cần cám công nghiệp.
- Môi trường: Duy trì dòng chảy nhẹ để kích thích cá vận động và phát triển cơ bắp.
- Môi trường nuôi: Ao nhỏ hoặc bể bạc có độ sâu vừa phải.
- Thức ăn: Cua tự kiếm ăn từ nguồn vi sinh, kết hợp bổ sung cỏ khô hoặc lục bình.
- Kỹ thuật: Thay nước định kỳ, tạo môi trường tự nhiên để tăng khả năng sinh trưởng.
B. Nguồn thức ăn tự nhiên và phù sa nhân tạo.
1. Nguồn thức ăn:- Sử dụng cỏ mục, rơm rạ, lục bình, rau mát khô, và nhánh cây làm chất dinh dưỡng tự nhiên.
- Nuôi tảo và phù du từ phế phẩm nông nghiệp.
- Phát triển thức ăn nhân tạo giúp bổ sung khi nguồn thức ăn tự nhiên khan hiếm.
- Nguyên liệu: Rau củ, trái cây, thực vật khô.
- Quy trình: Xử lý và trộn nguyên liệu để tạo chất dinh dưỡng tương tự phù sa tự nhiên từ mùa lũ.
- Ứng dụng: Phù sa nhân tạo có chứa tảo vi sinh vật, cung cấp dinh dưỡng cho cả bốn loài thủy sản, giúp giảm chi phí thức ăn công nghiệp.
C. Kỹ thuật hỗ trợ
1. Dòng chảy và mưa nhân tạo:- Sử dụng hệ thống bơm nước và phun mưa để tăng cường oxy, giúp thủy sản phát triển nhanh và khỏe mạnh.
- Lắp đặt hệ thống năng lượng Mặt Trời để vận hành máy bơm nước, sục khí oxy.
- Sử dụng chất dinh dưỡng tự nhiên và giám sát thường xuyên để duy trì môi trường nước sạch.
- Định kỳ kiểm tra môi trường sống của từng loài để điều chỉnh mô hình phù hợp với từng mùa hoặc thay đổi của thời tiết.
3. Lợi ích kinh tế và môi trường.
1. Kinh tế:- Tăng thu nhập cho nông dân thông qua sản lượng ổn định quanh năm.
- Giảm chi phí đầu vào nhờ tận dụng phế phẩm nông nghiệp.
- Giảm thiểu ô nhiễm nước nhờ mô hình nuôi trồng tự nhiên.
- Tận dụng tài nguyên thiên nhiên, giảm sự phụ thuộc vào thức ăn công nghiệp và hóa chất.
- Giúp người dân không có ruộng đất tận dụng mặt nước sông, rạch, kênh, mương để nuôi trồng.
- Hỗ trợ nông dân ở vùng nghèo nâng cao chất lượng cuộc sống.
4. Ứng dụng thực tiễn
1. Mô hình tại An Giang:- Phù hợp với điều kiện vùng Đồng bằng sông Cửu Long, nơi có nguồn nước phong phú.
- Ông Bùi Quang Võ đã chia sẻ mô hình này rộng rãi trên Diễn đàn Nông nghiệp Việt Nam, để hỗ trợ giúp cho các vùng khác áp dụng dễ thành công.
- Kết hợp mô hình này với các chương trình phát triển nông nghiệp bền vững, đồng thời mở rộng sang các giống loài thủy sản khác.
Đồng thời tận dụng thu gom rơm rạ cây cỏ dại khô héo, lục bình rau mát, phế phẩm nông nghiệp đem băm nhỏ xây nghiền làm phân hữu cơ, và xây dựng nền nông nghiệp bền vững cho bà con nuôi trồng thủy sản ở Việt Nam.
PHỤ LỤC 2 bổ sung :
HỆ SINH THÁI.
Phát triển mô hình nuôi 4 loài thủy sản (cá, tôm, cua, lươn) không chỉ là một giải pháp kinh tế bền vững mà còn mang ý nghĩa lớn trong việc xây dựng một hệ sinh thái xanh và tuần hoàn.
Dưới đây là các phân tích lý luận chi tiết về sự cần thiết và lợi ích của mô hình này:
1. Hệ sinh thái xanh và tuần hoàn
Mô hình nuôi 4 loài thủy sản tạo ra một vòng tuần hoàn sinh học khép kín, tận dụng tối đa các chất dinh dưỡng và giảm thiểu lãng phí. Trong hệ thống này:
Ốc và cá rô phi: Được nuôi để xử lý chất hữu cơ, sản sinh nguồn đạm tự nhiên có thể tái sử dụng làm thức ăn cho các loài có giá trị kinh tế cao như tôm, lươn, ếch, cá bóng và cá tầm.
Chất hữu cơ tái chế: Các chất thải từ hoạt động nuôi trồng được xử lý sinh học và tái sử dụng dưới dạng phân bón hữu cơ hoặc làm thức ăn cho các đối tượng thủy sản khác.
2. Nền tảng cung cấp đạm tự nhiên
Các loài thủy sản như ốc và cá rô phi có khả năng chuyển hóa chất hữu cơ thành nguồn đạm phong phú, phục vụ làm thức ăn cho các đối tượng nuôi giá trị cao hơn:
Ví dụ cụ thể:
Ốc đắng: Thịt ốc chứa hàm lượng đạm cao, có thể làm thức ăn cho lươn, tôm, hoặc cá bóng. Điều này giúp giảm chi phí thức ăn công nghiệp.
Cá rô phi: Sử dụng bột cá rô phi từ cá dư thừa hoặc phế phẩm làm nguồn thức ăn bổ sung giàu dinh dưỡng cho tôm thẻ chân trắng, cá tầm.
Hiệu quả kinh tế: Tận dụng đạm tự nhiên giúp giảm chi phí sản xuất, tăng khả năng cạnh tranh và nâng cao lợi nhuận.
3. Phát triển đa dạng đối tượng nuôi.
Mô hình này không chỉ tạo ra giá trị cho các loài nuôi chính mà còn hỗ trợ phát triển các đối tượng nuôi phụ, bổ trợ cho hệ sinh thái sản xuất:
Tôm thẻ, cá tầm, cá bóng: Những loài thủy sản có giá trị kinh tế cao hơn sẽ được hưởng lợi từ nguồn đạm tự nhiên của các loài thủy sản cấp thấp hơn như cá rô phi, ốc bươu.
Lươn và ếch: Sử dụng nguồn thức ăn giàu đạm tự nhiên để phát triển nhanh chóng, cải thiện chất lượng và giảm thiểu chi phí.
4. Ứng phó biến đổi khí hậu và bảo vệ môi trường
Giảm phát thải carbon: Tận dụng chất thải hữu cơ thay vì xử lý bằng phương pháp hóa học, giảm thiểu phát sinh khí nhà kính.
Cải thiện chất lượng nước: Các loài như ốc và tép có khả năng lọc nước tự nhiên, giảm thiểu ô nhiễm nguồn nước và duy trì môi trường nuôi trong lành.
Hệ sinh thái bền vững: Nuôi trồng kết hợp không chỉ giúp tăng năng suất mà còn đảm bảo tính bền vững của hệ sinh thái tự nhiên.
5. Ví dụ thực tiễn.
Thực tế tại ĐBSCL: Nhiều mô hình đã tận dụng ốc đắng làm thức ăn chính cho cá lóc, cá trê. Chất thải từ cá sau đó tiếp tục được ủ làm phân hữu cơ cho cây trồng.
Trung Quốc và Đài Loan: Áp dụng nuôi kết hợp ốc và tôm thẻ, vừa giảm chi phí thức ăn công nghiệp vừa tận dụng chất thải làm nguồn dinh dưỡng cho tảo và vi sinh vật.
6. Lợi ích kinh tế và xã hội
Giảm chi phí sản xuất: Nguồn thức ăn tự nhiên giúp tiết kiệm đáng kể chi phí so với thức ăn công nghiệp.
Tạo việc làm: Xây dựng các mô hình sản xuất phân hữu cơ, chế biến đạm tự nhiên, và nuôi trồng liên kết tạo việc làm ổn định cho người lao động.
Đóng góp vào xuất khẩu: Các sản phẩm thủy sản từ mô hình tuần hoàn có chất lượng cao, đáp ứng tiêu chuẩn xuất khẩu sang thị trường quốc tế.
Tóm lại:
Mô hình nuôi 4 loài thủy sản không chỉ mang lại giá trị kinh tế mà còn đóng vai trò quan trọng trong xây dựng hệ sinh thái xanh, cung cấp nền tảng dinh dưỡng cho các loài thủy sản giá trị cao, và góp phần ứng phó với biến đổi khí hậu. Đây là một chiến lược bền vững và tiềm năng cho nông nghiệp tương lai.
PHỤ LỤC 3 bổ sung :
Dưới đây là danh sách các loài thủy sản có giá trị cao hơn.
Các loài này thường có nhu cầu dinh dưỡng đặc biệt, và việc cung cấp nguồn dinh dưỡng tự nhiên từ mô hình nuôi 4 loài thủy sản có thể là một giải pháp hiệu quả để hỗ trợ sự phát triển của chúng.
1. Cá tầm (Sturgeon):
Giá trị kinh tế cao: Cá tầm là nguồn cung cấp trứng cá tầm, từ đó sản xuất caviar, một loại thực phẩm cao cấp có giá trị rất lớn. Cá tầm cũng có thịt thơm ngon, được ưa chuộng tại nhiều thị trường quốc tế.
Dinh dưỡng: Cá tầm có yêu cầu dinh dưỡng đặc biệt, bao gồm các vitamin, khoáng chất và đạm động vật. Việc nuôi kết hợp có thể giúp cung cấp một phần dinh dưỡng cần thiết.
2. Cá hồi (Salmon):
Giá trị kinh tế cao: Cá hồi được xem là một trong những loài cá có giá trị cao nhất trên thị trường nhờ vào thịt cá giàu omega-3, rất được ưa chuộng tại các thị trường như Bắc Mỹ, Châu Âu và Nhật Bản.
Dinh dưỡng: Cá hồi cần một nguồn thức ăn giàu đạm và chất béo, đặc biệt là omega-3. Mô hình nuôi 4 loài thủy sản có thể hỗ trợ việc cung cấp chất dinh dưỡng tự nhiên từ nguồn thức ăn bổ sung.
3. Cá rô phi (Tilapia):
Giá trị kinh tế cao: Cá rô phi là một trong những loài cá có giá trị cao, đặc biệt tại các thị trường xuất khẩu lớn như Hoa Kỳ, Châu Âu, và Trung Đông. Cá rô phi được ưa chuộng vì thịt cá ngọt, dễ chế biến và giá thành hợp lý.
Dinh dưỡng: Loài cá này cần nguồn thức ăn giàu protein và omega-3. Việc nuôi kết hợp sẽ giúp giảm chi phí thức ăn công nghiệp và tận dụng các chất dinh dưỡng tự nhiên từ chất thải thủy sản khác.
4. Cá chép (Carp):
Giá trị kinh tế cao: Cá chép, đặc biệt là cá chép Koi, có giá trị cao trong thị trường cá cảnh và làm thực phẩm tại nhiều khu vực như Nhật Bản, Trung Quốc, và các nước Đông Nam Á.
Dinh dưỡng: Cá chép cần các chất dinh dưỡng như protein và khoáng chất. Mô hình nuôi kết hợp giúp cung cấp nguồn dinh dưỡng hiệu quả, đảm bảo sự phát triển khỏe mạnh cho loài cá này.
5. Cá biển (Cá vược, cá cam, cá mú, v.v.):
Giá trị kinh tế cao: Các loài cá biển như cá vược, cá mú, cá cam có giá trị cao vì thịt cá thơm ngon, giàu chất dinh dưỡng, và được ưa chuộng trong các món ăn cao cấp.
Dinh dưỡng: Các loài cá biển này yêu cầu thức ăn có đạm động vật cao. Việc nuôi kết hợp có thể cung cấp nguồn thức ăn tự nhiên từ các loài thủy sản khác.
6. Tôm hùm (Lobster):
Giá trị kinh tế cao: Tôm hùm là một trong những loài hải sản đắt đỏ nhất, đặc biệt là tôm hùm Canada và Mỹ, được tiêu thụ rộng rãi ở các thị trường quốc tế.
Dinh dưỡng: Tôm hùm cần nguồn thức ăn giàu đạm động vật và khoáng chất. Việc nuôi kết hợp có thể giúp cung cấp các chất dinh dưỡng từ các loài thủy sản khác.
7. Nhuyễn thể (Oyster, Mussel, Clam):
Giá trị kinh tế cao: Các loài nhuyễn thể như hàu, ngao, trai được xem là thực phẩm cao cấp với giá trị kinh tế cao, đặc biệt trong ngành nhà hàng và xuất khẩu.
Dinh dưỡng: Các loài nhuyễn thể này không chỉ có giá trị dinh dưỡng cao mà còn giúp làm sạch nước, duy trì hệ sinh thái thủy sinh trong mô hình nuôi kết hợp.
Các loài này, khi được cung cấp dinh dưỡng hợp lý từ mô hình nuôi 4 loài thủy sản kết hợp, có thể phát triển tốt và mang lại giá trị kinh tế cao, đồng thời giúp giảm chi phí thức ăn công nghiệp. Mô hình này có thể là một giải pháp lý tưởng cho việc nuôi các loài thủy sản đắt đỏ trong một môi trường bền vững.
PHỤ LỤC 4 bổ sung :
Mô hình này sẽ là một giải pháp cơ bản để hỗ trợ đạm cho nhiều đối tượng chăn nuôi khác có giá trị thương phẩm cao hơn.
Mô hình nuôi 4 loài thủy sản không chỉ mang lại giá trị kinh tế mà còn đóng góp vào sự phát triển bền vững của hệ sinh thái, đặc biệt là ở những khu vực đang khan hiếm nguồn thức ăn giàu đạm và gặp khó khăn trong việc mua thức ăn công nghiệp cho thủy sản.Mô hình Hệ sinh thái bền vững này sẽ là giải pháp cơ bản hỗ trợ cho nhiều đối tượng chăn nuôi khác, từ đó giảm thiểu sự phụ thuộc vào nguồn thức ăn công nghiệp và tạo ra nguồn dinh dưỡng tự nhiên, bền vững.
Hệ sinh thái bền vững: Nuôi trồng kết hợp không chỉ giúp tăng năng suất mà còn đảm bảo tính bền vững của hệ sinh thái tự nhiên. Các loài thủy sản như ốc, tôm, cá, lươn có thể tái sử dụng chất hữu cơ và chất thải từ các loài khác để duy trì sự cân bằng trong môi trường sống.
Ví dụ thực tiễn:
Thực tế tại ĐBSCL: Nhiều mô hình đã tận dụng ốc đắng làm thức ăn chính cho cá lóc, cá trê. Chất thải từ cá sau đó tiếp tục được ủ làm phân hữu cơ cho cây trồng, giúp tăng trưởng cây trồng mà không cần dùng phân hóa học.
Trung Quốc và Đài Loan: Áp dụng nuôi kết hợp ốc và tôm thẻ, vừa giảm chi phí thức ăn công nghiệp vừa tận dụng chất thải làm nguồn dinh dưỡng cho tảo và vi sinh vật, góp phần duy trì chất lượng môi trường nước và giảm thiểu ô nhiễm.
Lợi ích kinh tế và xã hội:
Giảm chi phí sản xuất: Mô hình này giúp tiết kiệm đáng kể chi phí so với thức ăn công nghiệp, vì thức ăn tự nhiên có thể được tái sử dụng và tận dụng từ các chất thải khác.
Tạo việc làm: Việc xây dựng các mô hình sản xuất phân hữu cơ, chế biến đạm tự nhiên và nuôi trồng liên kết sẽ tạo ra nhiều cơ hội việc làm ổn định cho người dân, đặc biệt là ở các khu vực nông thôn.
Đóng góp vào xuất khẩu: Các sản phẩm thủy sản từ mô hình tuần hoàn có chất lượng cao, đáp ứng tiêu chuẩn xuất khẩu, góp phần phát triển thị trường quốc tế và nâng cao giá trị sản phẩm nông sản.
Tóm lại: Theo ông Bùi Quang Võ, mô hình nuôi 4 loài thủy sản không chỉ mang lại giá trị kinh tế mà còn đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng hệ sinh thái xanh, cung cấp nền tảng dinh dưỡng cho các loài thủy sản giá trị cao, và góp phần ứng phó với biến đổi khí hậu.
Đây là một chiến lược bền vững và tiềm năng cho nông nghiệp tương lai của Việt Nam và nhiều dân tộc khác đang thiếu đạm động vật, đồng thời giúp các khu vực khó khăn giải quyết vấn đề thiếu thức ăn công nghiệp cho chăn nuôi thủy sản khu vực.
PHỤ LỤC 5 bổ sung :
Phân Gà để nuôi trồng :
Nuôi Ruồi Lính Đen
Bèo Tấm
Ốc Bàng Quang.
Ốc Bưu Vàng.
Ý tưởng của ông Bùi Quang Võ là việc sử dụng phân gà để nuôi nhộng ruồi lính đen và sau đó tận dụng chất thải từ nuôi nhộng để bón ruộng trồng Bèo Tấm là một phương pháp rất hiệu quả và bền vững. Đây là cách mà các bạn có thể triển khai:
- Nuôi nhộng ruồi lính đen với phân gà:
- Phân gà: Cung cấp nguồn dinh dưỡng phong phú cho ấu trùng ruồi lính đen, giúp chúng phát triển nhanh chóng và hiệu quả.
- Nhộng ruồi lính đen: Sau khi thu hoạch, có thể sử dụng làm thức ăn chăn nuôi cho gia cầm, cá, và các loài động vật khác vì chứa hàm lượng đạm cao.
- Tận dụng chất thải từ nuôi nhộng:
- Chất thải hữu cơ từ nhộng: Sau khi ấu trùng ruồi lính đen xử lý phân gà, chúng sẽ thải ra chất thải hữu cơ giàu dinh dưỡng.
- Bón ruộng trồng bèo tấm: Chất thải hữu cơ này rất thích hợp để bón cho ruộng bèo tấm, giúp bèo tấm phát triển mạnh mẽ và hấp thụ nhiều nitơ cùng các chất dinh dưỡng khác.
- Dùng Bèo Tấm nuôi ốc Bưu Vàng, ốc Bàng Quang. Ốc Bàng Quang có lớp vỏ rất mỏng nên làm thức ăn cho cá còn nhỏ. Đặc biệt sinh sản rất nhanh nên sẽ là nguồn thức phong phú cho nhiều đối tượng nuôi trồng thủy sản khác.
- Lợi ích tổng hợp:
- Giảm ô nhiễm môi trường: Sử dụng phân gà một cách hiệu quả và giảm thiểu rác thải hữu cơ.
- Tạo nguồn đạm: Cả nhộng ruồi lính đen và bèo tấm đều có thể cung cấp nguồn đạm phong phú cho chăn nuôi và thủy sản.
- Sử dụng tuần hoàn: Tận dụng tối đa các nguồn tài nguyên sẵn có và giảm lãng phí.
PHỤ LỤC 6 bổ sung.
Nuôi Ốc bàng quang (Bladder snail).
Ốc bàng quang thường được xếp là một trong những loại ốc hại. Tuy nhiên, hãy đọc hết bài này để có cái nhìn khác về ốc bàng quang có vai trò làm thức ăn nuôi quan trọng cho Thủy Sản..Tên khác: Ốc hại, Bladder snail, Physa acuta...
Ốc Bàng Quang là một loài Ốc sên thuộc loài lưỡng tính, sinh sản sinh sản và có thể sống sót trong vùng nước bị ô nhiễm. Chúng cực kỳ thích nghi với nhiều môi trường bao gồm nhiệt độ và độ mặn khắc nghiệt.
Tuy nhiên, chúng cũng rất giỏi trong việc giữ bể nuôi thủy sản cho sạch sẽ.
Có rất nhiều cuộc tranh luận về những con ốc này trong bể cá. Một số người ghét chúng (trong đó có mình) và cố gắn quét sạch chúng. Tuy nhiên, ngoài vẻ xấu xí và tốc độ sinh sản nhanh, chúng đa phần là có ích và cũng được nhiều người nuôi cho cá nóc ăn, ốc sát thủ, cua và tôm càng.
Hầu như mọi người đều lặp đi lặp lại cùng một nội dung chung và không có gì khác biệt. Nhưng đa số không ai biết rõ về chúng.
Môi trường sống tự nhiên của ốc bàng quang.
Loài ốc Physa acuta đã lan rộng khắp các châu lục của Châu Á, Châu Phi, Úc, Châu Âu và Nam và Bắc Mỹ. Về cơ bản, ốc bàng quang có thể sống trên tất cả các lục địa ngoại trừ Nam Cực.Sự thật thú vị: Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1805 bởi Draparnaud từ sông Garonne gần Bordeaux (Pháp). Điều này dẫn đến sự suy đoán ban đầu về nguồn gốc châu Âu cho loài này. Hiện tại người ta đã xác định rằng Bắc Mỹ là phạm vi bản địa của loài này.
Mô tả về ốc bàng quang.
Ốc bàng quang là một loại ốc nhỏ (thở) không khí. Kích thước lớn nhất là 15 mm (0,6 inch) chiều dài và 7 mm (0,3 inch) chiều rộng, nhưng nói chung, chúng chỉ đạt 1 cm (0,4 inch).Vỏ của loài này là vặn ngược chiều kim đồng hồ, khá hiếm ở ốc sên và hình trứng hoặc hình sin, có đầu nhọn. Màu sắc có thể thay đổi từ vàng nhạt đến nâu nhạt.
Ốc bàng quang có một cặp xúc tu mịn, giống như sợi chỉ với đôi mắt ở gốc như những đốm đen rõ ràng. Lớp phủ có nhiều màu sắc với những đốm màu vàng cam.
Cơ thể màu xám và được bao phủ trong các đốm lửa trên lớp phủ trên cùng dưới vỏ.
Tuổi thọ dao động từ 3 - 12 tháng và phụ thuộc rất nhiều vào nhiệt độ môi trường.
Thực tế thú vị: Mặc dù chúng nhạy cảm với phơi nhiễm đồng, việc vận chuyển oxy của ốc sên không được thực hiện bằng huyết sắc tố, như ở người, mà bằng một loại enzyme tương tự có chứa đồng (hemocyanin). Đó là lý do tại sao, ở độ bão hòa oxy, máu của chúng chuyển từ không màu sang màu xanh nhạt.
Hành vi của ốc bàng quang.
Không giống như nhiều loài ốc đất và nước ngọt có thể rút vào nhà của chúng và đóng nó lại bằng nắp (operculum), ốc bàng quang không có nắp. Thay vào đó, để tránh bị kẻ săn mồi cướp mất, chúng có thể vẩy vỏ khá nhanh qua lại.Loài này cũng có thể bơi lộn ngược trên mặt nước để hít thở không khí. Trong trường hợp nguy hiểm, ốc sên có thể đẩy không khí ra khỏi hệ hô hấp của nó và nhanh chóng chìm xuống mặt đất.
Ốc bàng quang ăn gì?
Ốc bàng quang là loài ăn tạp. Chúng sẽ ăn tảo, rêu, chất hữu cơ chết và thối rữa (thịt, côn trùng, rau hoặc thực vật), thức ăn thừa của cá hoặc tôm (thức ăn viên, vảy, tấm tảo, v.v.), mảnh vụn và chất thải.Chúng là công nhân dọn bể hữu hiệu cho bể cá hoặc bể tôm, với cái mồm ăn liên tục. Thực tế, chúng làm việc rất tốt.
Ốc bàng quang không chạm vào bất kỳ cây khỏe mạnh trong bể. Ít ăn ăn thực vật còn sống. Phổ biến là ăn thực vật thối rữa, nên nhiều người nhầm tưởng rằng chúng xơi cả thực vật sống.
Chúng sẽ cắt tỉa và loại bỏ bất kỳ thảm thực vật nào đã chết hoặc mục nát, khiến cho cây trông giống như chúng đã được một người làm vườn tham dự.
Sinh sản.
Ốc bàng quang là loài ốc nước ngọt lưỡng tính với cơ quan lưu trữ tinh trùng. Điều đó có nghĩa là chúng có cả cơ quan sinh sản nam và nữ, và có thể sinh sản cả thông qua tự thụ tinh bên trong và thông qua thụ tinh chéo (giao phối).Mặc dù chúng có hai cách sinh sản, nhưng cách chính vẫn là thông qua giao phối. Họ tiếp cận và trèo lên vỏ của một con cái dự định, bò đến tuyến sinh dục của 'con cái'. Các cuộc giao hợp có thể kéo dài đến 30 phút.
Ốc Bàng Quang đạt đến độ chín của sinh sản (giai đoạn nữ) trong khoảng từ 28 đến 42 ngày (ở 20 - 22 C) (sau khi vượt qua giai đoạn đực ngắn).
Tại thời điểm trưởng thành sinh sản, ốc sên có chiều dài trung bình 6 mm (0,25 inch).
Ốc sên bàng quang (Physa acuta) đẻ trứng. Trứng trong suốt, trong viên nang. Mỗi viên nang trứng chứa 10 - 40 quả trứng và khả năng nở vẫn nằm trong khoảng từ 70 đến 90%. Sự nở của cá con (chiều dài mm1 mm) xảy ra 6 - 7 ngày sau khi đẻ trứng.
Lợi ích.
Ốc bàng quang là nguồn thức ăn tuyệt vời cho ốc Hương, ốc Assassin, Tôm Hùm, Tôm càng xanh, chép koi, Loaches, Cá nóc, Oscar, v.v. Bên cạnh đó, chúng có thể sống và phát triển ở bất cứ đâu.PHỤ LỤC 7 bổ sung
ỐC BÀNG QUANG SINH SẢN.
Hướng Dẫn Nuôi Ốc Bàng Quang (Physa acuta)
1. Vòng Đời của Ốc Bàng Quang.
Giai Đoạn Trứng
- Đặc điểm: Trứng được đẻ thành cụm, dính chặt vào bề mặt cứng như đá, thành bể, lá bèo, hoặc gỗ chìm.
- Thời gian nở: Sau khoảng 4-10 ngày, tùy thuộc vào nhiệt độ nước (lý tưởng: 20-28°C).
Giai Đoạn Ấu Trùng (Ốc Con)
- Đặc điểm: Ốc con rất nhỏ, có vỏ mỏng, bắt đầu ăn vi sinh vật, tảo, và mùn bã hữu cơ.
- Thời gian phát triển: Sau 1-2 tuần, ốc con phát triển vỏ cứng và bắt đầu giống ốc trưởng thành.
Giai Đoạn Trưởng Thành
- Kích thước trưởng thành: Dài 0.8-1.2 cm sau 3-4 tuần.
- Tuổi thọ: Từ 6 tháng đến 1 năm, nhưng sinh sản liên tục trong suốt vòng đời.
2. Sinh Sản của Ốc Bàng Quang
Đặc Điểm Sinh Sản
- Lưỡng tính: Ốc Physa acuta là loài lưỡng tính, mỗi cá thể có cả cơ quan sinh dục đực và cái. Ốc có thể tự thụ tinh hoặc giao phối với ốc khác để tăng tính đa dạng di truyền.
- Tần suất đẻ trứng: Một con ốc trưởng thành có thể đẻ trứng 2-3 lần mỗi tuần, mỗi cụm trứng chứa 10-50 phôi.
3. Môi Trường Đẻ Trứng
Vị Trí Đẻ Trứng
- Nơi đẻ trứng: Trên các bề mặt cứng và phẳng như lá bèo tấm, bèo cám, hoặc lục bình; thành bể, đáy ao, hoặc các viên đá chìm dưới nước; gỗ hoặc nhánh cây khô trong ao.
- Bảo vệ trứng: Trứng dính chắc nhờ lớp gel bảo vệ trong suốt, giúp chống lại kẻ thù tự nhiên.
Yêu Cầu Môi Trường.
- Nước sạch, giàu oxy: pH từ 6.5-7.5.
- Nhiệt độ: Tốt nhất là 22-28°C để trứng nở nhanh.
4. Quản Lý Sinh Sản và Khai Thác
Kiểm Soát Sinh Sản
- Biện pháp: Loại bỏ cụm trứng không cần thiết hoặc tách riêng ao nuôi để dễ quản lý.
Thu Hoạch
- Thời gian: Sau 3-4 tuần từ khi trứng nở, ốc đạt kích thước đủ lớn để thu hoạch.
5. Lưu Ý Đặc Biệt
- Thức ăn giúp tăng sinh sản: Tảo, bèo tấm, rau củ băm nhỏ, hoặc thức ăn công nghiệp cho ốc.
- Đối thủ tự nhiên: Cá ăn ốc hoặc các loài côn trùng lớn có thể tấn công ốc con và trứng.
6. Chăm Sóc và Bảo Dưỡng Môi Trường Nuôi.
Chất Lượng Nước.
- Thay nước định kỳ: Khoảng 25-30% nước mỗi tuần để duy trì môi trường sống lý tưởng cho ốc.
Oxy Hòa Tan.
- Hệ thống bơm oxy: Đảm bảo nồng độ oxy trong nước, đặc biệt trong những tháng hè nóng bức.
Kiểm Soát Dịch Bệnh.
- Theo dõi sức khỏe: Phát hiện sớm các dấu hiệu của bệnh và xử lý kịp thời.
7. Lợi Ích Kinh Tế và Môi Trường.
Kinh Tế.
- Nguồn thu nhập phụ quan trọng : Do vòng đời ngắn và khả năng sinh sản nhanh nên nuôi ốc Bàng Quang có thể là nguồn thu nhập phụ, nhưng lại là một nguồn thức ăn quan trọng cho nông dân nuôi thủy sản và cung cấp thức ăn các loài đối tượng chăn nuôi khác. Đặc biệt là trong mô hình chiến lược Nuôi 4 Loài thủy sản của ông Bùi Quang Võ Vĩnh Long nghiên cứu đề xướng.
Môi Trường
- Cải thiện chất lượng nước: Ốc giúp làm sạch ao nuôi bằng cách ăn tảo và mùn bã hữu cơ.
8. Giá Trị Dinh Dưỡng và Ứng Dụng.
Dinh Dưỡng.
- Giá trị dinh dưỡng: Ốc Bàng Quang chứa nhiều protein và khoáng chất, là thức ăn bổ dưỡng quan trọng cho nuôi thủy hải sản và gia cầm.
Tối Ưu Năng Suất Sinh Sản của Ốc Bàng Quang (Physa acuta).
Để tối ưu năng suất sinh sản của ốc Bàng Quang (Physa acuta), bạn cần tập trung vào các yếu tố môi trường, dinh dưỡng, và quản lý nuôi. Dưới đây là các cách cụ thể:1. Tối Ưu Hóa Môi Trường Sinh Sản.
Chất Lượng Nước
- pH: Duy trì từ 6.5-7.5.
- Nhiệt độ: 22-28°C (nhiệt độ ổn định sẽ giúp trứng phát triển nhanh và ốc đẻ đều).
- Oxy: Lắp máy sục khí hoặc tạo dòng chảy nhẹ để tăng oxy hòa tan (hơn 5 mg/L).
Tăng Bề Mặt Đẻ Trứng.
- Cung cấp nhiều bề mặt phẳngnhư:
- Lá bèo tấm, bèo cám.
- Tấm nhựa phẳng, gỗ chìm, hoặc đá sạch trong bể.
- Đảm bảo các bề mặt luôn chìm trong nước và sạch sẽ.
2. Dinh Dưỡng Giúp Tăng Sinh Sản.
Thức Ăn Chính
- Bèo tấm, bèo cám.
- Các loại rau lá mềm (rau muống, cải, lá khoai lang).
- Tảo, phù du từ nước được bổ sung phân hữu cơ.
Thức Ăn Bổ Sung.
- Cám gạo: Xay nhuyễn, hòa tan với nước và rải đều trong ao.
- Bột ngô, bột khoai: Tăng dinh dưỡng cho ốc trưởng thành.
- Khoáng chất: Thêm bột vỏ trứng hoặc bột vôi (CaCO3) vào nước để hỗ trợ tạo vỏ và tăng năng suất sinh sản.
3. Quản Lý Mật Độ Nuôi.
Mật Độ Hợp Lý.
- 300-500 con/m² là tối ưu.
- Nếu mật độ quá cao, giảm tốc độ sinh trưởng và sinh sản.
Tách Đàn
- Sau 2-3 tháng nuôi, cần tách ốc trưởng thành ra ao khác để giảm cạnh tranh thức ăn và chỗ đẻ trứng.
4. Kích Thích Sinh Sản Liên Tục.
Tạo Dòng Chảy và Mưa Nhân Tạo
- Dùng máy bơm tạo dòng chảy nhẹ, giúp ốc cảm giác môi trường tự nhiên, thúc đẩy sinh sản.
- Phun nước nhẹ (mưa nhân tạo) mỗi ngày 1-2 giờ để tăng độ ẩm và kích thích đẻ trứng.
Bổ Sung Ánh Sáng
- Đặt ao nuôi nơi có ánh sáng mặt trời buổi sáng (6-8 giờ/ngày).
- Tránh ánh sáng quá mạnh giữa trưa (có thể dùng lưới che).
5. Theo Dõi và Thu Hoạch.
Kiểm Tra Cụm Trứng
- Hằng ngày, kiểm tra các bề mặt đẻ trứng.
- Đánh dấu hoặc di chuyển cụm trứng sang ao/bể khác để tránh ốc trưởng thành ăn trứng.
Đảm Bảo Tỷ Lệ Sống.
- Sau khi trứng nở, bổ sung thức ăn mềm và dinh dưỡng cao cho ốc con.
- Loại bỏ tạp chất hoặc thức ăn thừa để giữ nước sạch.
6. Ước Tính Năng Suất Sinh Sản.
- Một con ốc trưởng thành có thể đẻ khoảng 30-150 trứng/tháng (tùy môi trường và dinh dưỡng).
- Với mật độ 500 con/m², bạn có thể thu được 15.000-75.000 trứng mỗi tháng/m².
- Sau 4-10 ngày, trứng nở và ốc con phát triển để trở thành nguồn thức ăn hoặc tái sản xuất.
Kỹ thuật nuôi cua đồng
Cua đồng (Somanniathelphusa sinensis) là loài giáp xác bộ 10 chân, sống ở nước ngọt và xuất hiện ở nhiều nơi như ao, hồ, ruộng, sông, suối. Tại Việt Nam, cua đồng có sản lượng hàng vạn tấn nhưng đang giảm do canh tác mới và sử dụng thuốc trừ sâu.
I. Đặc điểm sinh học:
- Tập tính sống: Sống ở đáy, đào hang để trú ẩn, chui rúc vào gốc cây, bụi rậm ở sông, rạch, đồng ruộng. Cua có khả năng bò lên cạn và di chuyển rất xa.
- Tính ăn: Cua đồng ăn tạp bao gồm tấm cám, lúa, rong, giáp xác, ốc, cá và thậm chí là xác chết động vật. Cua thường trú ẩn vào ban ngày và kiếm ăn vào ban đêm. Nhu cầu thức ăn của cua khá lớn, nhưng chúng có khả năng nhịn đói từ 10 đến 15 ngày.
- Cảm giác và vận động: Cua có đôi mắt kép rất phát triển, có khả năng phát hiện mồi hay kẻ thù từ bốn phía. Khứu giác cũng rất phát triển giúp cua phát hiện mồi từ xa. Cua di chuyển theo lối bò ngang và khi phát hiện kẻ thù, chúng lẩn trốn vào hang hoặc tự vệ bằng đôi càng to và khỏe.
- Lột xác và tái sinh: Cua trải qua nhiều lần lột xác để lớn lên và trong quá trình này, chúng có thể tái sinh lại những phần đã mất như chân, càng. Cua thiếu phụ bộ hoặc phụ bộ bị tổn thương thường có khuynh hướng lột xác sớm hơn.
- Sinh trưởng: Tuổi thọ trung bình của cua từ 1 đến 2 năm, mỗi lần lột xác, trọng lượng của chúng tăng trung bình từ 20 đến 50%. Cua đực khác cua cái ở hình thái của phần bụng (yếm), trứng cua nằm ở dưới yếm và nở thành cua con. Cua cái có 4 đôi chân bụng, cua đực có 2 đôi chân bụng biến thành chân giao cấu.
- Nuôi ao: Có thể nuôi cua con thành thịt trong các ao hồ riêng biệt hoặc kết hợp với ruộng lúa. Ao nuôi cần gần sông, có nguồn nước dồi dào và dễ cấp thoát nước. Nền đáy ao nên là loại đất thịt pha sét hoặc cát, không quá nhiều bùn nhão (lớp bùn không quá 20cm).
- Đất và nước ít bị nhiễm phèn, pH nước từ 6.5-8.5 và nhiệt độ từ 28-32°C. Diện tích ao từ 300-1.000m², độ sâu 0.8-1.2m.
- Bờ ao cần rào kỹ bằng đăng tre, tấm nhựa hoặc lưới cước, và đặt nghiêng vào ao để cua không thoát ra được. Ao cần có cống cấp và thoát nước thuận tiện, trước cống nên có 2 lớp đăng tre hoặc lưới chắn cẩn thận, lớp ngoài nên đăng theo hình chữ V. Trong ao nên chất chà làm nơi trú ngụ cho cua khi lột xác tránh hao hụt do chúng ăn lẫn nhau.
- Nuôi trong ruộng lúa: Chọn ruộng có diện tích khoảng 0.5-1 ha, địa thế bằng phẳng. Ruộng cần rào chắn giống như ao nuôi cua, nhưng nên đào nhiều mương dọc ngang trong ruộng để cua trú ẩn. Mương nuôi rộng từ 1.5-2m và sâu 0.8-1m, chiếm khoảng 15-20% diện tích ruộng. Cửa cống cấp thoát nước phải chắn bằng đăng tre hoặc lưới thích hợp, nền cống phải đầm chặt.
- Trong ruộng nên chất chà làm nơi trú ngụ cho cua khi lột xác tránh hao hụt do chúng ăn lẫn nhau. Ngoài ra, có thể nuôi đăng quầng trên ruộng theo địa hình cụ thể, diện tích từ 0.5-1 ha, mức nước sâu từ 0.8-1m, khi triều cạn phải đảm bảo một nửa diện tích có mức nước sâu từ 20-30cm. Mép trên của lưới có tấm nilon cao 50cm để cua không bò trốn, chân lưới cắm sâu xuống bùn từ 50-70cm.
- Cải tạo ao, ruộng nuôi: Trước khi nuôi 1-2 tuần, tiến hành chuẩn bị ruộng nuôi: tát cạn nước để diệt các địch hại của cua, bón vôi 7-10kg/100m². Nếu không tháo cạn được, dùng dễ cây thuốc cá 1kg/100m³ nước để diệt địch hại. Sau đó lấy nước sạch vào ao, ruộng nuôi. Ruộng nuôi cua nên sử dụng lúa cấy để tạo những khoảng trống cho cua di chuyển và tìm thức ăn thuận lợi, trồng lúa kháng bệnh, thân lá cứng.
- Thả giống và chăm sóc: Mùa vụ nuôi từ tháng 4-8. Chọn giống khỏe mạnh, đầy đủ càng và chân, màu sắc tươi sáng. Khi nuôi cua trong ruộng lúa, có thể nuôi theo dạng luân canh vào mùa nước nổi hoặc nuôi xen canh.
- Nuôi xen canh cần thả giống vào mương bao nuôi tạm trước khi lúa tốt, sau đó tăng nước lên ruộng để cua lên ruộng tìm thức ăn. Thả cua khi nhiệt độ, độ phèn nằm trong khoảng thích hợp, thả vào lúc trời mát và trên mé bờ để cua tự bò xuống nước. Cua đồng ăn tạp thiên về động vật, thức ăn gồm cá tạp, tôm còng, ốc, rau, khoai lang, khoai mì,...
- Thức ăn cho cua thịt nên chế biến, tỷ lệ cho ăn khoảng 5-8% trọng lượng cua, chia làm hai lần trong ngày, sáng sớm 20-40% và chiều mát 60-80%. Thức ăn phải còn tươi, không bị mốc hoặc ôi thiu. Cần cố định điểm cho ăn, mỗi 1.000m² ruộng có từ 5-7 chỗ cố định để kiểm tra. Tiến hành thay nước hàng ngày 30-50% để giữ môi trường trong sạch. Hạn chế sử dụng nông dược khi nuôi cua trong ruộng lúa.
- Điều chỉnh lượng nước trong ruộng thường xuyên cao từ 15-20 cm. Có thể bổ sung thêm cỏ, rau muống, bèo vào ruộng để làm nơi trú ẩn, thức ăn bổ sung và hạ nhiệt.
- Thường xuyên kiểm tra đề phòng chỗ rách của lưới để khắc phục kịp thời, tránh thất thoát cua. Điều chỉnh các yếu tố ôxy hòa tan, nhiệt độ, độ pH khi môi trường nước thay đổi.
PHÒNG CUA LỘT XÁC BỊ ĂN LẪN NHAU.
Khi cua đồng lột xác, vỏ của chúng trở nên mềm và yếu, dễ bị tấn công và ăn thịt bởi các con cua khác. Để khắc phục tình trạng này, bạn có thể thực hiện những biện pháp sau:- Chất chà trong ao, ruộng: Cung cấp các nơi trú ẩn như cành cây, cỏ, rong, bèo để cua có chỗ trú ẩn khi lột xác. Điều này giúp giảm thiểu nguy cơ bị tấn công.
- Mật độ nuôi hợp lý: Thả cua với mật độ hợp lý để giảm sự cạnh tranh về không gian và thức ăn, từ đó hạn chế tình trạng ăn thịt lẫn nhau.
- Chăm sóc và theo dõi kỹ lưỡng: Thường xuyên kiểm tra ao, ruộng nuôi và loại bỏ những con cua yếu, bị thương hoặc đã lột xác chưa hoàn toàn để tránh tình trạng bị tấn công.
- Cung cấp đủ thức ăn: Đảm bảo rằng cua được cung cấp đủ thức ăn để giảm bớt khả năng chúng ăn thịt lẫn nhau khi thức ăn khan hiếm.
File đính kèm
Last edited: